Ngày 30/5/1941 là ngày mà Manolis Glezos đã nhạo báng Adolf Hitler khi ông và một người bạn của mình lẻn lên nóc thành cổ Acropolis ở Athens, tháo xuống rồi xé toạc lá cờ “Chữ vạn ngược” được quân Đức Quốc Xã treo lên 4 tuần trước đó khi chúng chiếm đóng Hy Lạp. Hành động này đã làm ông và người đồng chí của mình trở thành những người hùng.
Vào thời điểm đó, Glezos là một chiến binh kháng chiến. Nhưng hôm nay, người đàn ông sắp bước sang tuổi 93 hiện đang là một nghị viên thuộc đảng cầm quyền Syriza đại diện cho Hy Lạp tại Nghị Viện Châu Âu. Ngồi ở văn phòng của mình trên tầng ba, tòa nhà Willy Brandt, Brussel, ông kể lại câu chuyện về cuộc chiến chống lại phát xít ngày xưa cũng như cuộc chiến với nước Đức hiện đại. Mái tóc bạc bù xù khiến nhiều người ví von ông giống như là Che Guevara lúc về già. Từng nếp nhăn trên khuôn mặt của người chiến sĩ một thời lột tả những thăng trầm của cả một thế kỷ trôi qua trên lục địa già.
Ban đầu, ông tham gia cuộc chiến chống phát xít Ý, sau đó cầm vũ khí chống lại Lực lượng vệ binh Đức Quốc xã, và rồi hòa mình vào cuộc đấu tranh lật đổ chế độ độc tài do quân đội Hy Lạp thiết lập. Từng đó đã đủ cho ông phải bị vào tù nhiều lần. Tổng cộng ông đã mất gần 12 năm trong đời đằng sau chấn song sắt, khoảng thời gian ông dùng để viết thơ. Tuy nhiên, ngay khi vừa được thả ra, ông lại tiếp tục tham gia vào những cuộc chiến còn đang dang dở. “Những giây phút ấy vẫn còn rất sống động ở trong tôi”, ông nói.
Glezos biết rõ điều gì sẽ xảy ra khi người Đức muốn thống trị cả Châu Âu và khẳng định rằng đó chính xác là điều đang diễn ra vào thời điểm này. Tuy nhiên, lần này không phải là những quân đoàn người Đức cai trị Hy Lạp, mà là những doanh nhân và các chính trị gia người Đức. “(Tuy) Tư bản Đức thống trị Châu Âu và kiếm lời trên sự bất hạnh của người Hy Lạp”, ông nói. “Nhưng chúng tôi không cần tiền của các người”. Trong mắt của ông, nước Đức hiện tại đang trực tiếp kế thừa quá khứ khủng khiếp của nó. Tuy vậy, ông cũng nhấn mạnh rằng, ông đang ám chỉ đến tầng lớp lãnh đạo, chứ không phải là toàn bộ người dân Đức. Ông nói, giới lãnh đạo nước này lại đang một lần nữa trở nên hung hăng khi mà “mối quan hệ giữa Đức với Hy Lạp có thể được ví như là mối quan hệ của một kẻ bạo chúa và những người nô lệ”.
Glezos nhớ đến bài viết của Joseph Goebbels, Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền Đức Quốc xã, mô tả một Châu Âu trong tương lai nằm dưới sự cai trị của người Đức với tiêu đề là “Năm 2000”. “Goebbels thực ra chỉ dự đoán sai có 10 năm”, ông nói thêm, khi mà phải đến tận năm 2010, lúc mà cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra, mới là thời điểm đánh dấu sự bá chủ của người Đức.
Đã từng có thời gian dài, chỉ có người Đức là bị ám ảnh bởi quá khứ man rợ thời phát xít của đất nước mình. Nhưng gần đây, nhiều nước châu Âu khác đã bắt đầu biểu hiện rõ sự đề phòng với cái quá khứ ấy. Thủ tướng Angela Merkel với hàm ria của Hitler, những cỗ xe tăng Đức đang tiến về phía nam: Những hình ảnh biếm họa ấy tràn ngập trên các phương tiện truyền thông ở Hy Lạp, Tây Ban Nha, Anh, Ba Lan, Italia và Bồ Đào Nha trong những năm gần đây. Và biểu tượng “Chữ vạn ngược” của chủ nghĩa phát xít trở thành biểu tượng đại diện cho nước Đức trong tất cả các cuộc biểu tình của người dân các nước, phản đối chính sách thắt lưng buộc bụng do chính phủ nước này đề xướng.
Người ta bắt đầu nói về “Đệ tứ đế chế” (Fourth Reich) như là một sự kế thừa từ thuật ngữ “Đệ tam đế chế” của Adolf Hitler. Điều này thoạt đầu nghe có vẻ phi lý, khi mà nước Đức ngày nay là một mô hình dân chủ thành công và chứa đựng trong nó không còn một chút tàn dư nào của chủ nghĩa “Quốc xã” – và dĩ nhiên không ai có thể đánh đồng các chính sách của Merkel là theo thiên hướng phát xít. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận hoàn toàn ý nghĩa của từ “đế chế” (Reich, tiếng Anh: empire) trong hoàn cảnh hiện tại, khi mà từ này được dùng để diễn tả sự thống trị, chi phối cuộc sống của một trung tâm quyền lực lên nhiều người, nhiều quốc gia khác. Vậy dựa vào định nghĩa trên, liệu có phải là sai khi nói rằng, đúng là có tồn tại sự thống trị của người Đức trên phương diện kinh tế hay không?
Chiếc bóng quá khứ ám ảnh hiện tại
Thủ tướng Hy Lạp Alexis Tsipras đương nhiên nhận thức rõ là ông không thể tự do lèo lái đất nước theo cách mà ông muốn. Hôm thứ hai ngày 23/3, ông lên đường đến Berlin để dự hội nghị với người đồng cấp phía Đức, mà trong hội nghị đó, chủ đề về quá khứ “Quốc-xã” của người Đức sẽ được ông đề cập đến. Hy Lạp đã yêu cầu Đức chi trả tiền chi phí sửa chữa những thiệt hại do Phát xít Đức gây ra cho đất nước này trong suốt chiến tranh thế giới lần thứ hai. Những yêu sách này, tất nhiên, liên quan nhiều hơn đến sự tuyệt vọng của chính phủ Hy Lạp, khi họ đang cố gắng điều hành đất nước bằng những chính sách a-ma-tơ của mình. Tuy nhiên, không thể nói rằng, quá khứ của nước Đức sẽ không bao giờ trở nên liên quan và đáng để nêu ra nữa. Trái lại, nó hiện đang được lặp đi lặp lại ở nhiều nơi như là một chiếc bóng của quá khứ ám ảnh lên cuộc sống hiện tại.
Những sự buộc tội từ phía Hy Lạp, Tây Ban Nha, Pháp hay kể cả từ Anh và Mỹ đối với Đức đang ngày càng trở nên gay gắt hơn. Như cách mà nhiều chính trị gia, kinh tế gia và cả giới truyền thông mô tả, cuộc khủng hoảng châu Âu đã cho phép người Đức chi phối và bóp chẹt các nước Nam Âu, nhằm ép buộc những nước này tuân theo những nguyên tắc cứng nhắc của nước Đức. Trong hoàn cảnh đó, chính sách xuất khẩu của Đức lại đem về cho nước này lợi nhuận khổng lồ khi so sánh với tất cả những nước còn lại trong khối Euro. Hình ảnh nước Đức hiện ra trong mắt của nhiều nước thành viên như là một bạo chúa kinh tế ích kỷ được vây quanh bởi những quốc gia nhỏ thịnh vượng và chia sẻ chung một kiểu mẫu về lợi ích ở Bắc Âu.
Những người chỉ trích và buộc tội mạnh mẽ nhất đến từ những quốc gia, nơi đã phải chứng kiến một tỷ lệ thất nghiệp khủng khiếp và sự tức giận cực độ từ công chúng nước mình trong nhiều năm. Họ nói rằng những con quỷ của nước Đức đã trở lại. Và vì thế không có gì là đáng ngạc nhiên khi mà nhiều chính phủ lại bỗng dưng bị bẽ mặt và đòi nước Đức phải thanh toán những món nợ nó gây ra trong quá khứ. Tội lỗi của người Đức trong thời kỳ phát xít giờ trở thành một vũ khí gây náo động hiệu quả của những chủ thể bất lực. Tuy trong nhiều cuộc thăm dò ở nước ngoài, Đức thực ra là một đất nước được nhiều người ngoại quốc kính nể. Nhưng với người dân Châu Âu hiện nay, họ sẽ buộc phải lôi lại chuyện cũ và gào thét khi mà những chính sách do người Đức đề xướng đang trở nên không mấy dễ chịu đối với họ.
Có một điều đáng lưu ý là, những cáo buộc đối với chính phủ Đức có một luận điệu kết hợp kỳ lạ rằng, nước Đức đang áp đảo, chứ không phải đang thực quyền lãnh đạo. Nó đang bá quyền, nhưng thực ra lại là một bá chủ yếu ớt. Điều này sẽ khiến nhiều người nhớ lại nội dung của cuốn sách “Từ Bismarck đến Hitler” được xuất bản vào năm 1987 của nhà sử học Sebastian Haffner, trong đó ông có viết rằng nước Đức tại thời điểm chuyển giao thế kỷ đang mang một kích thước thật kỳ lạ. Nó vừa quá lớn lại vừa quá nhỏ. Điều này có vẻ đang đúng một lần nữa.
Vậy vai trò của nước Đức ở lục địa già cụ thể là như thế nào khi được nhìn dưới lăng kính của cả người dân trong nước và người ngoại quốc?
Bóng dáng của những sư đoàn xe tăng Đức
Nằm cạnh sàn chứng khoáng Milan, nơi cách đó không xa có một tượng đá mang hình một bàn tay đang giơ ngón tay thối cao 11 mét như đang châm biếm cho sự thoái trào của nền tài chính thế giới, là tòa nhà trụ sở của nhật báo Il Giornale. Ngồi bên trong văn phòng mà khi xưa là của nhà báo nổi tiếng người Ý – Indro Montanelli, là một nhà báo kỳ cựu khác năm nay đã 71 tuổi – Vittorio Feltri. Ông đã tác nghiệp hơn một nửa thế kỷ tại nhật báo Corriere della Sera và một vài tờ báo khác. Vào năm ngoái, ông và một nhà báo nổi tiếng khác là Gennaro Sangiuliano, phó tổng biên tập cho kênh truyền hình quốc gia Rai 1, đã cùng hợp tác xuất bản một cuốn sách đáng chú ý với tựa đề: “Đệ tứ đế chế: Cách mà nước Đức khuất phục cả châu Âu”.
Nói thêm rằng, đây không đơn giản chỉ là suy nghĩ của một vài người cấp tiến tuyệt vọng cố tìm ra điểm giống nhau giữa hiện tại và quá khứ. Còn có nhiều học giả đáng kính và nhiều công dân ưu tú khác, những người mà không vướng bận bởi những lo lắng về cơm áo gạo tiền thường ngày, giống như Feltri và Sangiuliano, chia sẻ chung một quan điểm với họ.
Hai tác giả cho rằng, đồng euro chính là một phương tiện thống trị của người Đức và do đó phải được xếp ngang hàng với những sư đoàn xe tăng thiện chiến của Đức quốc xã ngày xưa. Đồng Euro chính là công cụ đảm bảo sự thống trị của người Đức. Và tòa án hiến pháp liên Bang Đức Bundesverfassungsgericht cũng nên được so sánh như là một thứ vũ khí phát xít. Đặc biệt, họ mô tả thủ tướng Đức, với tên châm biếm là Merkiavelli – được ghép từ tên của thủ tướng Merkel và cố học giả Machiavelli, với ý nghĩa mô tả sự láu cá, hai mang và thực dụng trong nghệ thuật quản lý nhà nước của Merkel – cùng với chính phủ tự phụ của mình đang cố hoàn thành cái kế hoạch mà Hitler ngày xưa còn làm dang dở. Cuốn sách, nói như Feltri, như một án văn luận chiến công kích “sự không thích hợp đến vô lý của việc sử dụng một đồng tiền chung, thứ mà duy nhất chỉ có nước Đức là được hưởng lợi từ nó”.
Một bộ phận lớn chính trị gia Ý chia sẻ cách nhìn của Feltri. Vào năm ngoái, thành viên Đảng dân chủ xã hội Romano Prodi, cựu chủ tịch của Hội đồng châu Âu, đã gây ngạc nhiên khi xuất bản một bài xã luận trên chuyên trang L’Espresso, trong đó có đoạn: “Ở Đức, những người theo chủ nghĩa dân túy và chủ nghĩa dân tộc thì được dạy dỗ và dẫn dắt bởi Merkel”, ông tiếp tục. “Tuy nhiên, ở Brussels trong những năm gần đây, lại chỉ có một quốc gia duy nhất xác định hướng đi của cả Liên minh; Đức thậm chí tự xem mình là đủ tư cách để dạy bảo những thành viên khác những bài học về đạo đức theo một cách không thể chấp nhận được”.
Trong khi thủ tướng Italia Matteo Renzi thì thận trọng khi nhấn mạnh tầm quan trọng của việc gần Đức, những tiếng nói cực đoan từ phía cánh hữu đang ngày càng trở nên gay gắt hơn. Chuyên gia nghiên cứu về nước Đức, Luigi Reitani đã phát biểu trong một hội nghị vào cuối năm ngoái rằng một số người Ý đã bắt đầu vẽ ra “một đường gạch nối từ những cuộc xâm lược man rợ trong quá khứ của Bismarck và Hitler tới (những chính sách của) Merkel”.
Ở Pháp, những luận điệu tương tự thế này xuất hiện một cách thường xuyên. Vào năm 2011, Arnaud Montebourg, người sẽ nắm cương vị Bộ trưởng Kinh tế một khoảng thời gian sau đó, nói rằng “Bismarck đã liên kết những nguyên tắc kỷ luật đậm chất Đức để cai trị Châu Âu, đặc biệt là để cai trị Pháp. Tương tự một cách đáng nhạc nhiên, Angela Merkel đang cố gắng giải quyết các vấn đề trong nước bằng cách áp đặt những nguyên tắc kinh tế và tài chính được hậu thuẫn bởi những người bảo thủ trong nước lên phần còn lại của Châu Âu”. Theo một cách nói khác, những chính sách bành trướng của Đức đã hiện diện trở lại, ít nhất là trên địa hạt kinh tế.
Trả bằng máu của người dân chúng ta
Nỗi sợ hãi trước sự bá chủ của người Đức đối với châu Âu sẽ không ở đâu bằng được ở Pháp, nơi mà một phần lớn lãnh thổ từng bị người hàng xóm của mình chiếm đóng đến ba lần trong vòng 80 năm. Đặc biệt là trong những năm gần đây, phong trào bài Đức phát triển một cách mạnh mẽ trên địa hạt chính trị, từ Đảng cực hữu Mặt trận quốc gia đến những người tả khuynh trong Đảng Dân chủ cầm quyền. Tuy mục đích một phần của phong trào này là nhằm hướng sự chú ý của công chúng ra khỏi những thất bại chính trị của các nhà lãnh đạo nước này trong việc thực thi cải cách, nhưng ý nghĩa và tác động của nó vẫn đáng được xem xét một cách nghiêm túc.
Nhà trí thức cánh tả Emmanuel Todd cảnh báo rằng, nước Đức đang “đẩy nhanh việc theo đuổi chính sách khuếch đại quyền lực và giấu mình (vào châu Âu)”. Châu Âu hiện đang bị cai trị bởi một nước Đức mà trong quá khứ liên tục nhầm lẫn giữa tính hoang tưởng tự đại của mình với luận lý. Kể từ lúc thống nhất, Todd nói tiếp, nước Đức đã biến một phần lãnh thổ rộng lớn ở phía đông Châu Âu, khu vực mà một thời chịu sự ảnh hưởng của Liên Xô, đặt dưới sự kiểm soát của nó, nhằm thực hiện những mưu đồ kinh tế của mình.
Ở Athens, trong tòa nhà của Bộ Văn hóa, Nikos Xydakis, thứ trưởng Văn hóa của chính quyền Syriza, bày tỏ sự quan ngại của mình.
“Hoàn cảnh hiện nay giống như là đất nước chúng tôi đang phải hứng chịu hậu quả của một cuộc chiến tranh vậy”. Ông nói thêm rằng, chính sách cứu trợ của Châu Âu đã phá hủy Hy Lạp khi mà “nó đã khiến chúng tôi đánh mất một phần tư tổng sản phẩm quốc dân GDP và ép một phần tư dân số lâm vào cảnh thất nghiệp”. Hơn nữa, ông nhấn mạnh, Hy Lạp đã không đòi hỏi những khoản vay cứu trợ khẩn cấp, mà trái lại, Hy Lạp bị ép phải nhận chúng cùng với chương trình thắt lưng buộc bụng, thứ mà khiến “chúng tôi phải trả bằng chính máu của người dân nước mình”.
Theo lời của ông, nước Đức đã trở nên quá quyền lực ở Châu Âu. Nước này hiện là lãnh đạo duy nhất cả về mặt chính trị và kinh tế. “Nhưng nếu một quốc gia muốn trở thành lãnh đạo thì phải cư xử cho đúng với địa vị của mình”. Ông muốn nước Đức phải trở nên hào phóng hơn và dừng ngay việc coi những nước yếu hơn ở châu Âu như là những đất nước của kẻ hạ đẳng. Xydakis nói thêm rằng, ông đã phải bỏ tiền ra thuê lại văn phòng này vì nguyên cả tòa nhà công quyền đã bị bán đi để trả nợ. “Tôi cảm giác như là chúng tôi hiện đang ở Leipzig hay Dresden khi mà những thành phố này bị ném bom vậy”. Điểm khác biệt duy nhất theo ông chính là những quả bom ngày nay mang hình hài là những biện pháp cứu trợ.
Đối với ông và cũng như hầu hết những tiếng nói chỉ trích khác đối với chính sách của Đức, chỉ duy nhất một từ là trọng tâm trong những lời phàn nàn của họ: đó là austerity (thắt lưng buộc bụng). Nó mô tả chính sách tiết kiệm triệt để, một thuật ngữ được phổ biến và đón nhận một cách tích cực ở Đức. Nhưng đối với các quốc gia châu Âu chịu ảnh hưởng khủng khiếp từ cuộc khủng hoảng nợ công, thực thi chính sách này giống như là bị các thế lực bên ngoài tước đoạt đi phúc lợi của mình trong tuyệt vọng vậy. Đức ngày nay không còn đơn giản chỉ là một nước xuất khẩu hàng hóa, nó hiện còn đang xuất khẩu cả luật lệ ra bên ngoài biên giới của mình.
Chính sách trọng thương thái quá
Hàng hóa, tất nhiên là được trao đổi mà không có bất cứ một sự cưỡng ép nào. Người dân châu Âu ưa thích những hàng hóa được sản xuất từ Đức. Chính vì thế, chỉ riêng phần thặng dư thương mại trong năm 2014 đã chiếm hơn 7% tổng sản phẩm đầu ra của cả nền kinh tế nước này. Thặng dư thương mại chính là phần chênh lệch mà nước Đức thu được, khi nó xuất khẩu nhiều hàng hóa hơn là nhập khẩu từ các nước khác. Phần thặng dư này, tới phần nó lại thường chảy từ Đức ra bên ngoài dưới dạng xuất khẩu vốn. Nói một cách khác, những ngân hàng ở Đức sẽ cho những công ty ở nước ngoài vay tiền, để họ có thể, đến lượt mình, mua hàng hóa do Đức sản xuất.
Kể từ lúc thế giới bước qua thiên niên kỷ mới cho đến nay, phần thặng dư thương mại của Đức đã tăng gấp bốn và đạt mức 217 tỷ euro. Chỉ riêng giao dịch với Pháp đã tạo ra thặng dư thương mại lên tới 30 tỷ euro. Và dù cho khối lượng xuất khẩu của Đức tới các nước thành viên trong liên minh bị sụt giảm do ảnh hưởng của cuộc suy thoái, không có bất cứ quốc gia nào trên thế giới lại đạt được thặng dư thương mại lớn như Đức. Tại sao lại như vậy? Có phải bởi vì chính sách trọng thương thái quá của chính phủ Đức hay không?
Câu trả lời cho vấn đề này có thể được giải đáp bởi nhà kinh tế học người Đức Henrik Enderlein. Ông hiện đang là giáo sư kinh tế chính trị tại trường Hertie School of Governance tại Berlin. Ông từng theo học tại Pháp và Mỹ, từng làm việc tại ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) và có cơ hội giảng dạy tại Harvard. Hiện ông cũng đang là cố vấn kinh tế của Đảng Dân chủ xã hội của Đức và cha ông đã từng là một chính trị gia khuynh hướng tự do dân chủ và thân thiện với giới doanh nhân. Có thể nói rằng, ông có khả năng nhìn nhận các vấn đề quốc tế một cách bao quát hơn và không chỉ qua lăng kính của quốc gia mình. “Khi bàn đến việc nước Đức hiện đang có thặng dư thương mại lớn nhất thế giới thì đơn giản là chỉ có một nguyên nhân duy nhất lý giải điều này”, ông nói. “Đó là sau khi khu vực đồng Euro được thành lập, chúng tôi đã không có lựa chọn nào khác là phải trở nên cạnh tranh hơn. Nhưng thật là vô lý khi tin rằng nước Đức làm vậy với mục đích là để gây hại cho các nước khác trong khối”.
Enderlein tin rằng, nước Đức đã không chủ ý gây nên tình trạng khó khăn hiện nay, mà thực ra chính cấu trúc của khu vực đồng Euro là nguyên nhân chính cho điều đó. Ông cũng tin rằng, ECB phải chịu một phần trách nhiệm, bởi vì trong những năm đầu sau khi đồng Euro được dùng làm đồng tiền chung trong khu vực, thể chế này đã giữ cho lãi suất trên thị trường ở mức 3-4%/năm. Đối với những nước Nam Âu, lãi suất này là quá thấp và dẫn đến việc tạo ra những bong bóng giá cả và lương. Nhưng ngược lại đối với Đức, lãi suất này lại quá cao và những nhà sản xuất đã không còn lựa chọn nào khác ngoài việc phải trả lương thấp cho lao động, nhằm giữ cho sản phẩm của mình vẫn còn tính cạnh tranh. Nhìn sơ qua, sự ép lương nhân tạo này không mang tính thái quá một chút nào, nhưng các nước Nam Âu lại buộc tội nó nặng nề.
Việc chần chừ tăng lương của Đức đã đóng góp nhiều cho sự tăng trưởng, sự tự tin và tất nhiên là cả sự gia tăng quyền lực và vị thế của Đức. Khi Angela Merkel đến Brussels, bà hiện diện với tư cách là nhà lãnh đạo của nền kinh tế lớn nhất châu Âu. Và vì thế, nếu bà không đồng ý với chính sách nào thì chính sách đó chắc chắn sẽ không được thông qua. Quyền lực này không phải là điều xấu khi được sử dụng một cách khôn ngoan. Nhưng có thực là họ đã làm đúng như thế hay không?
Thực tế có phần là ngược lại khi mà đã bắt đầu xuất hiện một “giọng điệu” mới ở Đức. Thứ giọng điệu này không phải là sản phẩm của một chính sách ngoại giao mềm dẻo và hiệu quả. Những sự thì thầm, đề xuất và hướng dẫn truyền thống đã bị thay thế bởi những lối nói ba hoa và khoác lác.
“Giọng điệu” mới này được dễ dàng tìm thấy ở phát ngôn sau đây của bộ trưởng tài chính Đức Wolfgang Schäuble. Khi nói về Hy Lạp, ông quả quyết rằng “một quốc gia mà cả hàng thập kỷ nền kinh tế của nó đã bị tổn thương, nhưng người dân của quốc gia này lại sống phung phí, đó là do sự lãnh đạo tồi của giới tinh hoa nước này – không phải là vì châu Âu, không phải vì Brussels và tất nhiên không phải vì Berlin mà duy nhất là chỉ bởi vì vì sự thất bại của giới lãnh đạo nước này – và nay họ bị bắt buộc (bởi chúng ta để) quay trở lại mặt đất. Rồi khi mà những người chịu trách nhiệm xuyên tạc sự thật này với người dân nước họ, thì thật không có gì đáng ngạc nhiên khi mà công chúng lại cư xử như cách chúng ta thấy hiện nay”. Phát biểu này được ông đưa ra tại một sự kiện của Quỹ theo khuynh hướng trung hữu Konrad Adenauer.
Chủ nghĩa đắc ý (Triumphalism)
Một ngày trước phát biểu của Schäuble, bộ trưởng tài chính bang Bavaria của Đức, Markus Söder cũng đã diễn đạt một ý kiến tương tự trong một show truyền hình với bộ trường tài chính Hy Lạp Yanis Varoufakis. Ông cũng không bỏ qua cơ hội này để mà khoe khoang về sức mạnh kinh tế và tài chính của bang mình.
Volker Kauder, thủ lĩnh phe bảo thủ đa số trong quốc hội Đức, là một ví dụ điển hình của một người theo chủ nghĩa đắc ý, và là một đại biểu của “giọng điệu” mới. Quay trở lại năm 2011, tại một hội nghị của đảng Dân chủ thiên chúa giáo CDU của thủ tướng Merkel ở Leipzig, Kauder phát biểu rằng: “Đột nhiên, tiếng Đức lại được sử dụng rộng rãi ở châu Âu”. Mặc dù các đại biểu của đảng bảo thủ CDU thích câu nói này, nhưng bên ngoài lại có ác cảm với nó và điều đó đã khiến Kauder hứa rằng ông sẽ không bao giờ phát ngôn như thế một lần nữa.
Merkel, tất nhiên, là sẽ không bao giờ chấp nhận một giọng điệu như vậy, hay ít nhất là theo một cách công khai. Bà lúc nào cũng tỏ ra rất cẩn thận khi phát ngôn. Thậm chí nhiều lúc, những lời nói của bà mơ hồ đến mức dường nó không đủ để diễn đạt ý tứ mà bà muốn truyền tải. Trong một lần, bà nói trước những nghị viên đảng bảo thủ của bà ở Berlin rằng “nước Đức phải nên là một quốc gia không bỏ qua bất cứ một điều gì chưa thử làm trong việc tìm kiếm một tiến trình (giải pháp)”. Tiến trình ở đây, theo dụng ý của bà, là cho một nơi khác ngoài Đức, ví dụ như ở Hy Lạp.
Ở một khía cạnh khác, các kế hoạch của bà thủ tướng quá bao quát đến nỗi từng có nhiều người mỉa mai là mục đích của nó là để tạo ra một “Đế chế của Merkel”. Bà không hề tỏ ra mặn mà với ý tưởng châu Âu là chủ thể chính như người tiền nhiệm của mình, thủ tướng Helmut Kohl, người muốn được nhìn thấy nước Đức hòa tan vào trong Châu Âu. Trái lại, Merkel nghĩ nhiều hơn từ phương diện “quốc gia dân tộc”, nhưng bà cũng nhận ra rằng nước Đức đứng một mình thì sẽ có ít ảnh hưởng lên các vấn đề quốc tế. Các đất nước muốn có tiếng nói trên trường quốc tế thì phải sở hữu một dân số lớn và một nền kinh tế mạnh. Nước Đức có trong tay cái thứ hai, nhưng so với Trung Quốc hay Mỹ lại thiếu yếu tố đầu – đó là nguyên nhân vì sao nước Đức lại cần một Châu Âu đông dân. Tuy nhiên, đó cũng cần phải là một Châu Âu giàu sức cạnh tranh và sở hữu một nền kinh tế mạnh hơn, và đây chính xác là điều mà Merkel đang hướng tới.
Vào giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng đồng euro, bà triển khai một ý tưởng phân loại tên là benchmarking (đánh giá theo tiêu chuẩn). Ý tưởng này yêu cầu những quốc gia Châu Âu phải được phân loại theo từng phạm trù và phải được đánh giá xếp hạng dựa trên sự so sánh của từng quốc gia với đối tượng tốt nhất trên mỗi phạm trù cụ thể, và thường đối tượng này là Đức. Có thể hiểu, qua cách làm này, một Châu Âu cho người Đức sẽ được tạo ra.
Khi mà cả châu Âu đang vật lộn đối phó với cuộc khủng hoảng nợ tại Ireland, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Cyprus và Hy Lạp, đã có hai phương pháp tiếp cận khác nhau để giải quyết vấn đề được nêu ra. Các quốc gia Nam Âu thì muốn kích thích tăng trưởng thông qua sự gia tăng chi tiêu công với kỳ vọng rằng quốc gia của mình sẽ tiếp tục tiến lên phía trước. Đức và các nước Bắc Âu khác, ngược lại, lại lựa chọn biện pháp tiết giảm chi phí và thực hiện cải cách cấu trúc nền kinh tế.
Và nước Đức hùng mạnh đã tìm ra được một cách để áp đặt hướng đi này, ép các nước khác đi “trên đường ray” của nước Đức, bằng cách đưa Quỹ tiền tệ quốc tế IMF thay thế Đức đảm nhận vị trí là một giám sát viên nghiêm ngặt. Tuy nhiên, vẫn là Berlin giữ trọng trách chính trong mọi quá trình.
Vào thời điểm ban đầu trước khi kế hoạch được thông qua, những lãnh đạo châu Âu khác đã dám phản đối ý tưởng trên một cách công khai. Thủ tướng Ba Lan Donald Tusk nói rằng ông có “những sự nghi ngờ nhất định đối với phương pháp này” và hỏi người đồng cấp Merkel tại một hội nghị của EU: “Tại sao bà lại cố gắng tạo ra sự ly gián này giữa chúng ta?”. Nhưng chưa đầy một năm sau đó, Merkel đã đạt được một thắng lợi quan trọng khi một hiệp ước tài khóa đậm chất Đức được thông qua ở cấp Châu Âu. Ngoài ra, các lãnh đạo EU cũng đồng ý thiết lập trần vay mượn của những thiết chế hiến pháp trong nước, và áp đặt những biện pháp trừng phạt đối với những quốc gia vi phạm trần vay mượn, cũng như thông qua những cải cách hệ thống mà nước Đức đã tự bản thân thực hiện từ năm 2003-2005. Như nhà xã hội học người Đức Ulrich Beck ví von, sức ép mà Berlin áp đặt lên toàn Châu Âu là bằng chứng của chủ nghĩa “Merkiavellismus”.
“Madame Non”(Quý bà nói Không)
Sự thay đổi trong cách tiếp cận của Đức trong việc giải quyết các vấn đề của Châu Âu đã thay đổi một cách ngoạn mục. Trong khi thủ tướng Helmut Kohl thì cố gắng né tránh sự cô lập có thể phát sinh khi bàn đến các thỏa thuận quan trọng bằng mọi giá, thì người kế nhiệm của ông, bà Merkel lại hoàn toàn bác bỏ cách làm này. “Tôi thà là bị cô lập trong EU còn hơn, nhưng tôi không quan tâm. Vì việc tôi làm là đúng”, bà đã phát biểu như vậy trong một cuộc thảo luận về vai trò của IMF tại châu Âu với một tổ các cố vấn. Sau đó, bà còn nhấn mạnh: “Vị thế của chúng ta trong châu Âu giống như vị thế của Mỹ trên trường quốc tế: đều là những lực lượng lãnh đạo không được yêu mến”.
Chủ tịch nghị viện Châu Âu Martin Schulz nói rằng khi ông vận động tranh cử ghế chủ tịch Hội đồng Châu Âu năm 2014 với tư cách là thủ lĩnh phe trung tả, thì thường bị hỏi rằng: “Bằng cách nào mà ông nghĩ ông có thể chạy đua cho chức chủ tịch Hội Đồng Châu Âu? Ông là người Đức mà”. Schulz được cho là thông thạo bốn ngoại ngữ và dành hầu hết thời gian trong sự nghiệp chính trị của mình cho công việc ở Brussels. Ông đã dành nhiều thời gian cho việc xây dựng một mối quan hệ hữu hảo giữa Đức và Pháp. “Tôi được xem như là một phần trong kế hoạch thống trị của người Đức”, ông nói. “Có một cảm giác chung là nước Đức đã trở nên quá quyền lực, nhưng khi bạn đề cập đến vấn đề này (với những người xung quanh) thì bạn sẽ không bao giờ nhận được một câu trả lời thật.”
Nhiều quan chức kỳ cựu tại phủ thủ tướng Đức đã tìm cách lý giải bằng cách nào mà nhiều người lại nhìn nhận vấn đề như vậy. Họ cho rằng, lý do chính là vì Đức đã đóng vai trò quá lớn trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng đồng Euro. Chỉ có những chính phủ quốc gia (ý nói Đức) là đủ khả năng để vận động tiền cứu trợ đủ nhanh để hỗ trợ những quốc gia trong khối khác. Ngoài ra, khi mà nền kinh tế của nước Pháp càng đình trệ, thì quyền lực của Đức lại càng gia tăng một cách rõ ràng.
Merkel nhiều lúc được mô tả là một “Madame Non”. Khi một trong những lãnh đạo EU kết thúc bài phát biểu của mình tại cuộc họp chung của liên minh châu Âu ở Brussel, mọi người thường ngay lập tức dò xét nét mặt của bà để đoán thái độ của bà trước bài phát biểu ấy.
Nhưng liệu có quá đáng khi vẽ biếm họa bà với bộ ria Hitler? Và mô tả nước Đức hiện nay là “Đệ tứ đế chế”?
Quay trở về một chút vào thời điểm mà những người phát xít tự gọi nước Đức của họ là “Đệ tam đế chế” trong một nỗ lực để khẳng định sự kế thừa của họ với hai kỷ nguyên cai trị Châu Âu trước đó của người Đức. Đệ nhất đế chế là Đế chế La Mã thần thánh vào thời trung cổ. Không chỉ là quốc gia của chỉ một dân tộc, đó là kỷ nguyên mà phần lớn lãnh thổ Châu Âu kéo dài tới tận Sicily được cai trị bởi hầu hết các hoàng đế người Đức. Thời kỳ này chỉ kết thúc vào năm 1806 khi mà Napoleon chinh phục nhiều vùng đất một thời thuộc đế chế này. Đệ nhị đế chế bắt đầu từ lúc mà Bismarck thành lập nên Kaiserreich vào năm 1871 sau khi chiến thắng Đan Mạch, Áo và Pháp. Nhiều tiểu bang khác của người Đức sau đó đã tự động gia nhập vào đế quốc Phổ. Đó là lý do vì sao Bismarck được coi như là người tạo nên bộ khung lãnh thổ của nước Đức đương đại. Ngày 1/4 năm nay là lễ kỷ niệm 200 năm ngày sinh của ông.
Nhưng sau khi sáng lập nên Kaiserreich, một thứ cảm xúc nguy hiểm bắt đầu lan rộng. Đó là sự tự cao, ngạo mạn của người Đức, một thứ cảm giác cho rằng dân tộc mình là tối thượng so với các chủng tộc khác. Nhưng thật ra, đây lại chính là một loại cảm xúc pha trộn giữa sự hèn nhát và cảm giác bị đe dọa.
Nhường lại sự thống trị cho những quốc gia khác
Đế chế của Bismarck, dưới thời Hoàng đế Wilhelm II từ năm 1888, có một kích cỡ rất bất tiện. Nó quá lớn theo nghĩa rằng nó là một quốc gia quyền lực nhất châu Âu, đe dọa Pháp, Anh và Nga cùng thời. Tuy nhiên nó vẫn còn quá nhỏ để có thể tự mình cai trị cả châu Âu. Người Đức rất kém trong việc thành lập liên minh với các quốc gia khác – và chính yếu tố này và yếu tố nội bộ là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Đế chế Kaiserreich bị thua trong cuộc chiến này và kết quả là bị tan vỡ vào năm 1918.
Hitler tin rằng nước Đức vĩ đại của y là đã đủ lớn mạnh để cai trị Châu Âu, và tất nhiên y đã sai lầm nghiêm trọng. Ngay cả khi sử dụng những chiến lược quân sự láu cá và thi hành việc đàn áp tàn bạo, phát xít Đức vẫn không đủ sức đánh bại phe Đồng Minh. Sau sự sụp đổ của “Đệ tạm đế chế”, sự thống trị của người Đức trên lục địa già được coi là không bao giờ có khả năng xảy ra một lần nữa. Cả Tây Đức và Đông Đức lúc đó chỉ là những nhà nước thử nghiệm, và dù ít dù nhiều vẫn phải dựa dẫm vào những người “anh lớn” là Mỹ và Liên Xô. Thời điểm đó, họ nhường quyền lực cho những nước khác.
Tuy nhiên, Tây Đức lại sớm phát triển nên một công cụ kinh tế đầy quyền lực lúc bấy giờ: đồng Mark. Nền kinh tế Tây Đức sau đó phát triển rất nhanh và nợ quốc gia của nó quay trở về mức an toàn. Ngoài ra, Ngân hàng Trung ương Đức Bundesbank bắt đầu có ảnh hưởng lớn đến việc hoạch địch chính sách kinh tế và tài chính ở châu Âu trong những năm 1970 và 1980. Các chính phủ Pháp, Anh và Ý thời điểm nay rất chú ý đến những quyết định được đưa ra ở Frankfurt. Trước khi nước Đức thống nhất năm 1991, một quan chức cấp cao trong phủ tổng thống Pháp phát biểu rằng: “Chúng ta có thể có bom nguyên tử, nhưng người Đức họ lại có đồng Mark”.
François Mitterrand, tổng thống Pháp trong thời kỳ bức tường Berlin sụp đổ, không phải là người ủng hộ sự tái thống nhất nước Đức. Ông sợ rằng người khổng lồ ở trung tâm Châu Âu sẽ lại sớm tìm kiếm cảm giác thống trị một lần nữa. Thủ tướng Anh Margaret Thatcher cũng tin vào điều đó, và ngay cả những chính trị gia cánh tả của Đức cũng nghĩ như vậy. Nhà văn đạt giải Nobel văn học, Günter Grass tin rằng đất nước mình sẽ lại sớm tự mãn và thèm muốn cái cảm giác thượng đẳng của ngày xưa.
Xác nhận lại một lần nữa nỗi lo đó là cách mà huấn luyện viên đội tuyển bóng đá Đức Franz Beckenbauer phát biểu khi mà vào năm 1990, lúc bóng đá Đức đăng quang tại World Cup tổ chức ở Italia, ông tuyên bố rằng: “Chúng ta nay đã trở thành số một thế giới sau một thời gian dài là số một của Châu Âu. Lúc này, chúng ta lại được bổ sung thêm những tuyển thủ đến từ Đông Đức. Thật xin lỗi phần còn lại của thế giới, nhưng đội tuyển Đức sẽ không bao giờ bị đánh bại trong nhiều năm tiếp theo”.
Trong địa hạt chính trị cũng dễ tìm thấy biểu hiện của sự hoang tưởng tự mãn này. Thủ tướng Helmut Schmidt tự nhận mình là kinh tế gia xuất sắc nhất thế giới trong thời kỳ 1970-1980. Khi ông hội đàm với tổng thống Mỹ Jimmy Carter, ông không xem đây là một cuộc gặp gỡ giữa Đại đế quốc Mỹ và một nước Đức nhỏ bé, mà là một cuộc gặp gỡ giữa Schmidt lớn và tiểu Carter. Sau đó vào những năm 1990, xuất hiện Oskar Lafontaine, thành viên Đảng dân chủ xã hội. Khi đảm nhận chức bộ trường tài chính Đức từ năm 1998, Lafontaine thực hiện nỗ lực đầu tiên để xây dựng Châu Âu theo tầm nhìn của Đức. Ông muốn hòa hợp các thị trường tài chính ở châu Âu với nhau và nỗ lực để xây dựng ở đây một khu vực sử dụng đồng tiền chung. Tờ Sun của Anh lúc ấy đã tự hỏi rằng, liệu ông có phải là người đàn ông nguy hiểm nhất châu Âu hay không.
Vẫn quá nhỏ và chần chừ?
Nhưng cuối cùng, Lafontaine đã thất bại, và đội tuyển quốc gia Đức cũng đã phải trải qua nhiều lần thất bại khi cố gắng giành giật lại ngôi vương môn thể thao vua, ít nhất là cho tới năm 2014. Ngoài ra, nước Đức sau khi thống nhất lại thể hiện một vai trò rất khiêm tốn trên trường chính trị. Tuy nhiên sau đó mọi thứ dần thay đổi khi mà đồng euro được đem vào sử dụng, thứ mà tổng thống Pháp Mitterand hy vọng là sẽ phá hủy “quả bom nguyên tử” của Đức là đồng Mark. Đồng Euro thực ra được tạo ra với mục đích ban đầu là phá vỡ sự thống trị trong kinh tế của Đức, nhưng hóa ra nó lại phản tác dụng. Đồng tiền chung đã liên kết số phận của các quốc gia thành viên lại với nhau và trớ trêu thay, lại giao cho Đức một quyền lực vượt trội so với các nước khác.
Đó là lý do vì sao “những câu hỏi về nước Đức” lại quay trở lại. Liệu nước Đức hiện đại quá lớn và quá quyền lực so với các quốc gia EU khác hay nó vẫn còn quá nhỏ và chần chừ trong việc lãnh đạo EU?
Hans Kundnani là trưởng bộ phận nghiên cứu chính sách tại Trung tâm Châu Âu về các Vấn đề Đối ngoại, một think-tank về toàn Châu Âu đặt tại London. Trọng tâm nghiên cứu của ông là về các chính sách đối ngoại của Đức. Ông đã xuất bản một cuốn sách về Đức với tựa đề “Nghịch lý về sức mạnh của nước Đức”. Kundnani liên kết những câu hỏi kinh điển về nước Đức với những tranh cãi hiện tại về vai trò của Đức trong khu vực đồng tiền chung Euro. Theo ông, sức mạnh kinh tế hiện tại của Đức là tổng hợp các mối quan hệ tương hỗ giữa các quốc gia thành viên, và chính sức mạnh này đã gây nên một sự bất ổn kinh tế, thứ có hiệu ứng giống như hiệu ứng gây ra bởi sự bất ổn chính trị thời Bismarck.
Kundnani tin rằng, vấn đề không nằm ở chỗ Đức quá quyền lực và sẽ là chủ thể lãnh đạo châu Âu, mà là ở cách thực hiện nửa vời thứ quyền lực này như hiện nay. Có lẽ Đức quá yếu để có thể đảm đương vai trò nó đang cố thực hiện, mặc dù Đức đã tập trung toàn bộ sức lực hiện có của mình.
“Nước Đức hiện đại lại một lần nữa gặp phải một nghịch lý. Nó vừa yếu lại vừa mạnh cùng một lúc – điều này giống với khi được thống nhất vào thế kỷ 19, nước Đức được nhìn nhận từ bên ngoài là quá quyền lực, nhưng đối với người dân trong nước thì quốc gia thực ra lại rất dễ bị tổn thương”, Kundnani viết tiếp. “Đức ngày nay (đơn giản là) không hề có ý làm lãnh đạo và nó kiên quyết chống lại sự cơ cấu nợ (mà về bản chất chính là quá trình chuyển sự thanh toán những khoản nợ và nghĩa vụ của các quốc gia khác trong liên minh tới tay của người dân và chính phủ Đức), nhưng nó lại cũng đồng thời muốn tái lập nên một châu Âu theo ý chí của mình, nhằm làm cho liên minh này trở nên giàu sức cạnh tranh hơn”.
“Lãnh đạo” trong ngữ cảnh này đồng nghĩa với nghĩa vụ phải cứu giúp các quốc gia khác, đó là cách mà Varoufakis nhìn nhận vấn đề. Vị bộ trưởng tài chính Hy Lạp này muốn Merkel phải tạo ra một phiên bản mới của Kế hoạch Marshall, thứ mà nước Mỹ đã đề ra và thực thi trong quá khứ nhằm giúp các quốc gia châu Âu tự đứng dậy sau chiến tranh. Lý do là vì một hệ thống tương tự như hệ thống do Mỹ dẫn dắt không chỉ đơn giản là việc Mỹ tạo ra những luật lệ cho hệ thống đó một cách cứng nhắc. Ẩn chứa bên trong còn là những động lực, phần thưởng mà Mỹ dành cho các quốc gia khác để họ đủ sức là một phần của hệ thống đó. Để làm được điều đó, hệ thống này đã phải tìm đến sự thoả hiệp trong ngắn hạn giữa các quốc gia để bảo đảm những lợi ích dài hạn.
Ngày càng giống một đế chế
Nước Đức là quốc gia đã chống lưng cho hai gói cứu trợ của Hy Lạp, nhưng chúng được nhìn nhận là không đủ hiệu quả. Chính phủ mới của Hy Lạp muốn thay đổi những luật lệ cơ bản của khu vực đồng Euro bằng cách thúc đẩy việc cơ cấu, chuyển đổi lại các khoản nợ và phá bỏ những luật lệ do Đức áp đặt. Nhiều quốc gia thành viên khác cũng đồng ý với điều này. “Đây không phải một liên minh tiền tệ”, tờ Financial Times bình luận trên ấn bảng tháng 5/2012. “Nó giống như là một đế chế nhiều hơn”.
Nhà đầu tư George Soros cảnh báo châu Âu đang bị chia rẽ giữa một bên là các quốc gia, nơi đã đạt được thặng dư thương mại trong nhiều năm và ở phía bên kia là những nước với thâm hụt thương mại. Ông nhấn mạnh đây chính là hệ quả tất yếu của mô hình lấy Đức là đế chế trung tâm của cả Châu Âu và các nước khác chỉ là vùng ngoại biên của nó.
Thế giới ngày nay vốn dĩ là xoay quanh những vấn đề về kinh tế. Khái niệm “lực lượng thống trị” và “kẻ bị thống trị” đã nhường lại vị trí lịch sử của nó cho cặp đôi khái niệm mới: chủ nợ và con nợ. Đức là chủ nợ lớn nhất châu Âu. Về cơ bản, người cho vay tất nhiên là có nhiều quyền lực hơn con nợ. Họ chế ngự con nợ và thường vạch ra những viễn cảnh cụ thể về việc người đi vay nợ cần phải làm những gì để có thể trả lại khoản nợ mà mình đã vay. Và vì điều đó, chủ nợ thường không giành được nhiều thiện cảm từ phía con nợ.
Nguyên nhân mà các chủ nợ muốn kiểm soát và chế ngự con nợ của mình là bởi vì họ sợ. Sợ rằng họ sẽ không bao giờ nhìn thấy tiền của mình một lần nữa. Nước Đức có thể tạm chấp nhận việc Hy Lạp sẽ không trả nổi nợ, nhưng không thể chịu được điều tương tự với trường hợp của Ý và Tây Ban Nha.
Đức có thể đủ lớn mạnh để áp đặt luật lệ lên châu Âu, Kundnani viết, nhưng nó lại quá yếu để trở thành một bá chủ thực sự. Giống như trước Thế chiến thứ nhất, nước Đức hiện đại lại một lần nữa bị vây quanh bởi những nước nhỏ hơn mình. Một phần của nỗi sợ này được phản ánh trong nỗi lo rằng, ECB có thể bị điều khiển bởi những nước nhỏ ở Nam Âu và quyền lực to lớn của nó có thể rơi vào tay những quốc gia vay nợ. Nước Đức hành xử không giống như một bá chủ mà giống là một “bán bá chủ” (semi-hegemon) nhiều hơn. Đây là một cụm từ được viết ra bởi sử gia người Đức Ludwig Dehio, khi ông mô tả vị trí của nước Đức trong lòng châu Âu sau năm 1871. Cùng một hướng suy nghĩ như trên, cựu bộ trưởng ngoại giao của Ba Lan Radoslaw Sikorski đã phát biểu trong một diễn văn ở Berlin vào tháng 11 năm 2011 rằng, ông ít lo lắng về quyền lực quá lớn của nước Đức mà chủ yếu ông sợ về sự bàng quan không hành động của Đức nhiều hơn và do đó ông hối thúc nước này cần quyết đoán hơn trong việc dẫn dắt châu Âu.
Một thực tế khác mà Kundnani đã ghi nhận là một mầm mống chính trị mới trong lòng xã hội Đức khi người dân nước này tự coi mình mới chính là nạn nhân thực sự của cuộc khủng hoảng đồng Euro – một quan điểm đương nhiên là trái ngược với cách mà các quốc gia vay nợ nhìn nhận sự việc. Sự tự thương xót này chính là nguồn gốc cho sự xuất hiện một trào lưu chính trị mới ở Đức, và hệ quả của nó là sự buộc tội không ngừng đối với người dân Hy lạp là đã quá tham lam (và có phần vô kỷ luật).
Sự liên hệ sai với chủ nghĩa phát-xít
Trong khi nước Đức thống trị châu Âu về mặt kinh tế trong suốt cuộc khủng hoảng, vai trò của nó trong các chính sách đối ngoại Châu Âu vẫn còn rất hạn chế. Mà ví dụ điển hình nhất cho việc từ chối thực hiện một vai trò chính trị lớn hơn trên mặt trận ngoại giao là việc không tham gia cuộc bỏ phiếu trong phiên họp Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc tháng 3/2011 về việc cho phép NATO can thiệp quân sự vào Libya. Các đối tác châu Âu của Đức như Pháp nhìn nhận sự bỏ cuộc này của nó như là một bước thụt lùi, vì trước đó nước này đã tham gia vào cuộc không kích Kosovo và cuộc chiến Afghanistan.
Việc kêu gọi Đức thể hiện sự lãnh đạo nhiều hơn nữa xuất phát từ những quốc gia Đông Âu trong những năm gần đây rõ ràng là đã đối nghịch với những lời phàn nàn về sự thống trị kinh tế của Đức. Nhưng hai xu hướng này rõ ràng là có liên quan đến nhau. Đức đơn giản là muốn trở thành một cường quốc kinh tế, chứ không phải là một cường quốc quân sự. Chủ nghĩa dân tộc của nó dựa trên sức mạnh của nền kinh tế quốc dân và những đồ thị xuất khẩu, chứ không phục vụ cho ham muốn trở thành một quyền lực địa chính trị. Sự nghịch lý của Đức có thể được nhìn thấy trong sự chần chừ của nước này khi xử lý cuộc khủng hoảng Ukraine.
Kundnani viết, nước Đức được mô tả như là một sự pha trộn kỳ lạ giữa sự quyết đoán trong kinh tế và sự lưỡng lự khi đối mặt với các vấn đề quân sự”. Chỉ riêng với lý do này, việc đánh đồng nước Đức hiện đại với quá khứ phát xít của nó là hoàn toàn không có cơ sở. Nước Đức ngày này không phải là một đất nước của nạn kỳ thị chủng tộc hay là một quốc gia dung dưỡng cho bạo lực. Tất cả mối quan tâm của Đức là về vấn đề tiền bạc. Và đó là điều khác biệt lớn nhất giữa hai thời kỳ, ngay cả khi những tranh chấp với các quốc gia khác trên địa hạt kinh tế có gay gắt đến mức nào đi chăng nữa.
Nhưng đúng là đang có dấu ấn của một đế chế, ít nhất trong lãnh địa kinh tế. Khu vực đồng tiền chung euro đúng là được lãnh đạo bởi Đức, nhưng sự thống trị cỉa Berlin không phải là không bị thách thức. Sự kháng cự lại Đức, trái lại là rất lớn khi nó là tiếng nói của hàng triệu người dân từ những quốc gia khác. Do đó, sở hữu một thứ quyền lực lớn như thế dĩ nhiên là phải đi kèm với một nghĩa vụ lớn tương đương. Tuy nhiên, chính phủ và những nhà hoạch định chính sách của Đức lại hành xử như thể họ đang vận hành một quốc gia nhỏ vậy.
style=”border:0;margin-right:0;margin-bottom:18px;margin-left:0;padding:0;vertical-align:baseline;”
Nói tóm lại, Đức thực tế là không đủ tiền và sức lực để giải quyết tất cả các vấn đề của các quốc gia khác. Nhưng vai trò của nó vẫn rất quan trọng và đáng lẽ ra là Đức đã có thể tạo nên nhiều thứ vĩ đại hơn, bằng cách đơn giản là thỉnh thoảng phô ra sự hào phóng của mình. Và tất nhiên nếu không có những tiếng nói phản đối từ Munich hay Berlin thì nhiều tiến trình ở châu Âu sẽ dễ dàng đạt được kết quả hơn. Đôi khi, quyền lực và sự vĩ đại của mình lại được thể hiện một cách rõ nét khi mà ta lơ đi những gán ghép khiêng cưỡng của các thế lực ngoại vi hoặc là bác bỏ nó một cách lịch thiệp.
Nói tóm lại, Đức thực tế là không đủ tiền và sức lực để giải quyết tất cả các vấn đề của các quốc gia khác. Nhưng vai trò của nó vẫn rất quan trọng và đáng lẽ ra là Đức đã có thể tạo nên nhiều thứ vĩ đại hơn, bằng cách đơn giản là thỉnh thoảng phô ra sự hào phóng của mình. Và tất nhiên nếu không có những tiếng nói phản đối từ Munich hay Berlin thì nhiều tiến trình ở châu Âu sẽ dễ dàng đạt được kết quả hơn. Đôi khi, quyền lực và sự vĩ đại của mình lại được thể hiện một cách rõ nét khi mà ta lơ đi những gán ghép khiêng cưỡng của các thế lực ngoại vi hoặc là bác bỏ nó một cách lịch thiệp.
Nguồn : http://nghiencuuquocte.net
Cảm ơn chị Nguyệt Ánh đã cung cấp một bài rất hay, rất thời sự về tình hình châu Âu hiện nay.
Trả lờiXóaNhững thông tin khá bổ ích ạ
Trả lờiXóaNhân tiện nếu có thắc mắc thêm về cắt góc mắt rộng tạo mắt to thì có thể tham khảo ạ