Trang

Chủ Nhật, 26 tháng 4, 2015

Sinh nhật cháu tròn 3 tuổi

Hôm nay ngày 24-4-2015 là ngày sinh nhật của cháu gái nội của tôi. Cháu tên là Nguyễn Quỳnh Nga, Nicnem của cháu là Nai.  Bố mẹ cháu đã tổ chức cho cháu một buổi sinh nhật rất vui vẻ và ấn tượng.
Nhà cửa được trang hoàng rất đẹp, có rất nhiều bóng bay đủ các thể loại to nhỏ khác nhau bay lơ lửng trong nhà. Có nhiều bóng bay mầu sắc rực rỡ và rất to. Khách đến mừng sinh nhật con rất đông và mang đến tặng cho con rất nhiều quà vì ai cũng thương yêu con. Con là một cô bé vừa xinh đẹp, ngoan ngoãn rất thông minh và có tính tự lập cao.
Rất tiếc là hôm nay con bị ốm, con bị viêm họng nên nom con buồn buồn, con không thể chạy nhẩy vui vẻ như mọi ngày. Giá mà đứa trẻ khác thì đã khóc quấy và đòi đi nằm rồi còn con thì vấn cố gắng tiếp khách cả buổi tối hôm nay. Bà thấy con chững chạc quá, con biết hôm nay con là chủ nhà mà.
Nhìn những bức ảnh bà chụp cho con dưới đây ai cũng thấy rõ điều đó. Bà tặng cho con, cất đi làm kỷ niệm nhé.


                  Con xin chào mọi người đã đến dự Sinh nhật con

                            
                                 Bàn này để bánh Gato và quà mừng
                  mọi người cho con


Con đúng bên lẵng hoa mẹ tự kết từ 100 bông hoa hồng     




                         Con muốn hát quá mà đau cổ không hát được


                   Bố Tùng đang uống rượu với bạn bè



                           Con nằm nghỉ một tý




                      Anh Bún cùng nằm nghỉ với con

                                       
                 Quả bóng bay to quá che lấp cả đầu con




Piano đang đợi mọi người đánh bài chúc mừng


Chuẩn bị phá cỗ



Bác Bạch Dương và anh Gia Anh cũng có mặt


                           Chụp bức ảnh chung để kỷ niêm













Thứ Năm, 23 tháng 4, 2015

Ngẫm suy

Đọc lại bài viết “Cần phải bịt lỗ hổng làm loạn đất nước”, cứ nghĩ đến “thương lái” Trung Quốc hoành hành đất nước thì tương tự như nói đến “tàu lạ” đâm tàu ngư phủ ta. Lãnh đạo nhà nước và các địa phương mà cứ tránh né vấn đề cốt lõi thì làm sao mà nhận định đúng bản chất vấn đề rồi từ đó tìm kế sách đối thoại và giải quyết?. Trong nền kinh tế thị trường mở cửa thì không có thương lái nào chịu bỏ ra khoản tiền đặt cọc hoặc thu mua ban đầu với giá cao để dẫn dụ dân ta làm ăn với họ. Sau đó thương lái rút lui, dân ta vỡ nợ thì tổng kết bản thân thương lái cũng chịu lỗ lã chứ có lãi gì cho cam! Tức là phía sau các thương lái có một thế lực, một hệ thống với đủ nguồn lực tài chính nhằm mưu đồ làm lũng đoạn VN. Họ chịu chi tiền vì biết người VN còn chịu thiệt hại nặng hơn chi phí họ bỏ ra. Vấn đề cốt lõi là ở chỗ đó. Họ mua móng trâu, rễ và gốc hồ tiêu (phải là rễ và gốc sống!), bông thanh long trước khi nở (không lấy bông đã nở), lá khoai lang tươi khi chưa thu hoạch củ (không mua lá khoai sau khi thu hoạch), v.v..., toàn là mấy thứ lãng nhách! Rõ ràng là họ chẳng có nhu cầu nào về mấy món họ mua. Mỗi món chỉ rộ lên một thời gian rồi sau đó chuyển qua món khác. Thủ đoạn còn tinh vi hơn như khi họ bỏ giá cao thu mua khoai lang, còn đặt tiền trước. Thế là nông dân thi nhau lên liếp ruộng lúa để trồng khoai lang. Rồi họ biến mất tăm, để nông dân mang nợ với đống khoai không ai mua và đất thì đã lên liếp, muốn trồng lúa như trước phải có tiền cải tạo lại. Thế là dân ta bị lũng đoạn te tua từ mặt này sang mặt khác. Họ là nước lớn, nguồn lực tài chính dồi dào. Mang nguồn lực đó ra lũng đoạn VN thì dân ta cứ chịu thiệt từ cách này qua cách khác. Nếu các nhà lãnh đạo ta có đủ dũng khí thì nên nói thẳng với Trung Quốc “Bây giờ hai bên nên thẳng thắn với nhau để giải quyết các màn kịch nhằm gây hại cho nhân dân VN,đừng tránh né nữa. Giải quyết được thì mới hãy nói đến hữu hão” . Bố già Corleone đã từng nói với các đối thủ: “Nếu con tôi bị tai nạn xe cộ thì tôi sẽ đổ lỗi cho các ông.” Ta cũng có thể nói thẳng: “Nếu thương lái mang quốc tịch TQ còn tìm mua mấy món vớ vẩn mà chúng tôi biết không thể có nhu cầu ở TQ nhưng chỉ nhằm lũng đoạn dân VN thìchúng tôi sẽ đổ lỗi cho chính quyền TQ! Rõ ràng là thế. Thẳng thắn là thế.” Trước mắt, ta phải xử lý mạnh đám thương lái này. Chính quyền địa phương đừng nhân nhượng nữa, và cũng đừng nói không biết. Nếu không biết có thương lái, không biết họ làm gì ở địa phương mình thì nền an ninh quốc phòng sẽ ra sao??? Nếu cần thì làm mạnh, trên danh nghĩa mình chỉ trừng phạt thương lái lũng loạn đát nước. Đồng thời cần đẩy mạnh tuyên truyền, thông tin cho nông dân, để đừng tiếp tay cho ngoại bang mà làm hại đồng bào vv… Tác giả Tô văn Trường

Thứ Tư, 22 tháng 4, 2015

Quan hệ Philippine và Việt nam

VN chủ động đề nghị đối tác chiến lược' Tổng thống Philippines tiết lộ đề nghị thiết lập 'đối tác chiến lược' nhằm đối phó với Trung Quốc trong tranh chấp biển đảo đến từ phía Việt Nam. Trong thời gian qua, nhiều ý kiến cho rằng đó là sáng kiến của Manila, vốn vẫn luôn có lập trường cứng rắn trước Trung Quốc. Tuy nhiên trong cuộc trả lời phỏng vấn với tờ Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng (South China Morning Post - SCMP), được đăng hôm 20/4, ông Benigno Aquino cho biết yêu cầu này đến từ phía Việt Nam. Ông nói hiện hai phía vẫn chưa xác định rõ thời điểm ký kết thỏa thuận. "Trên thực tế chúng tôi đang định hình mối quan hệ đó ... và đang đàm phán các chi tiết cụ thể," ông nói. Tổng thống Philippines cũng cho rằng quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam sẽ tạo điều kiện cho hai nước "có thêm không gian để đối thoại một cách thích đáng" về những "tuyên bố chủ quyền chồng chéo", thay vì phản ứng dựa trên những lợi ích quốc gia riêng biệt. Trước đó, giới chức Việt Nam và Philippines đã có cuộc gặp hồi đầu năm nay và đã ra thông cáo chung trong đó bày tỏ quan ngại trước hoạt động cải tạo các bãi đá trên quy mô lớn của Trung Quốc tại Biển Đông. Trong bài phỏng vấn với SCMP, ông Aquino cũng nói nếu có dịp, ông sẽ đề nghị Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình 'thử đặt mình vào vị trí các nước Đông Nam Á, như Philippines hay Việt Nam'. "Hãy thử đặt mình vào vị trí của chúng tôi ... và tự hỏi ông sẽ đáp lại những thách thức trên Biển Nam Trung Hoa như thế nào," ông Aquino nói trong cuộc phỏng vấn. "Có như vậy, chúng ta mới có thể hy vọng xây dựng một mối quan hệ tốt hơn, nhất là trong bối cảnh tranh chấp hiện nay." Tổng thống Philippines nói việc đưa Trung Quốc ra các tòa quốc tế là cách tốt để Bắc Kinh cảm thấy 'tác động xấu' về mặt dư luận kể cả khi họ không chấp nhận các phán quyết quốc tế về biển đảo. Tại Philippines đang dấy lên lo ngại về công tác xây đảo của Trung Quốc ở Trường Sa, có điểm chỉ cách vùng dân cư Philippines 25 km. Ông Aquino coi đây là vấn đề 'xấu đi chưa từng có' trong quan hệ Philippines - Trung Quốc. 'Kẻ bề tôi' Trong một diễn biến khác, tờ Hoàn cầu Thời báo, trực thuộc Nhân dân Nhật báo, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Trung Quốc, hôm 21/4 đã đăng tải bài xã luận gọi Philippines là 'đầy tớ' của Hoa Kỳ. Bài viết được đăng tải chỉ một ngày sau khi Philippines bắt đầu đợt tập trận kéo dài 10 ngày với Hoa Kỳ và Úc. "Trong tất cả những nước có tranh chấp chủ quyền trên Nam Hải, Philippines là nước có nhiều thủ đoạn nhất, nhưng sẽ không có thủ đoạn nào phát huy hiệu quả", bài viết có đoạn. "Không ai tin rằng Trung Quốc có thể bị lừa phỉnh để đi đến thỏa hiệp, trong lúc những nước khác phô trương sức mạnh quân sự của mình." "Chúng ta sẽ chỉ phá lên cười khi tưởng tượng cảnh binh sỹ Philippines bám theo quân Mỹ." Bài xã luận cũng nhạo báng khả năng quốc phòng của Philippines: "Dù là một tên đầy tớ bé nhỏ xinh xắn của Hoa Kỳ trong nhiều năm qua, Manila chỉ có được trong tay một số ít vũ khí đã qua sử dụng và sự tưởng tượng sáo rỗng về an ninh, huống hồ bất cứ sự cải thiện nào đối với khả năng chiến đấu của quân đội nước này." Hôm 17/4, Tổng thống Philippines được Reuters dẫn lời nói trước báo giới cảnh báo rằng hoạt động nới đảo của Trung Quốc là 'vấn đề của toàn cầu'. "Chúng ta cứ nghĩ rằng tranh chấp trên Biển Nam Trung Hoa chỉ là vấn đề trong khu vực", ông nói. "Tuy nhiên, đây là vấn đề của toàn cầu, vì 40% lượng hàng hóa giao thương của cả thế giới đi qua vùng biển này". Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama trước đó đã lên tiếng cáo buộc Trung Quốc đang dùng 'tầm vóc và sức mạnh' của mình để lấn át các nước nhỏ hơn trên Biển Đông. Tuy nhiên Trung Quốc khẳng định hành động trên là hợp pháp. BBC

Thứ Tư, 8 tháng 4, 2015

Người Do Thái: Sự thần kỳ của một dân tộc nhỏ bé

Người Do Thái: Sự thần kỳ của một dân tộc nhỏ bé Một dân tộc nhỏ nhưng tác động đến rất lớn toàn bộ văn minh của trái đất. Từ cuộc sống, khoa học, làm giàu… đến tư tưởng mọi thứ đều có sự tác động của người Do Thái. Văn minh Do Thái không để lại những kiến trúc nổi tiếng như Kim tự tháp, điện Pantheon hoặc Vạn lý Trường thành, nhưng nó lưu lại mãi mãi một di sản phi vật thể vô giá mà ít có nền văn minh nào có thể sánh được về tầm ảnh hưởng lâu dài, sâu sắc đối với văn minh toàn nhân loại. Dường như là, mỗi khi bàn luận về sự thông minh có di truyền không, người ta đều nêu lên dẫn chứng về giải Nobel và người Do Thái. Và cũng như một thông lệ, hàng năm sau khi công bố giải, người ta đều hỏi người Do Thái chiếm bao nhiêu phần trăm giải năm ấy. Và thực tế thì con số này không hề nhỏ. Ví dụ chỉ sau khi vừa công bố 3 giải Nobel 2011, lập tức có một bài báo nhan đề “Bà mẹ Yiddeshe có thể tự hào: Năm trong bảy Nobel gia là người Do Thái”. Đó là: Ralph Steinman và Bruce Beutler, giải Nobel về Y học, Saul Pelmutter và Adam G. Ross - giải Nobel về Vật lý, Daniel Shechtman - giải Nobel về Hoá học. Dân tộc Do Thái là một trong những dân tộc có nền văn hoá và lịch sử lâu đời nhất của nhân loại, ra đời cùng với thời kỳ văn minh Ai Cập, văn minh Lưỡng Hà và văn minh Hy Lạp-La Mã thời cổ đại. Nhưng lịch sử bắt họ phải chịu một số phận không may mắn, bị các bộ tộc và các lãnh chúa khác xâm chiếm đất đai và xua đuổi dưới những lý do tôn giáo. Từ đó họ phải sống tha hương, từng nhóm kéo nhau đi khắp mọi nơi trên thế giới để duy trì sự sinh tồn, vượt qua những định mệnh nghiệt ngã của lịch sử. Trên 2000 năm qua, đi đến đâu họ cũng tỏ ra là một dân tộc có sức sống dẻo dai, không bị đồng hoá và ý thức vươn lên mãnh liệt.Trong công việc họ cần cù, kiên trì và quyết tâm đạt những mục đích mình theo đuổi. Bởi vậy, gần như sống ở đâu họ cũng thành công. Sự thành đạt và khôn ngoan của họ nhiều khi bị thành kiến và kỳ thị. Trong Thế chiến II, dưới chế độ phát xít, khi Hitler đề cao thuyết “người Đức là một dân tộc thượng đẳng”. Hitler rất sợ sự vượt trội của người Do Thái, nên dã bắt họ sống trong các trại tập trung, đày đoạ họ với ý đồ để họ chết dần chết mòn trong đó. Người Do Thái đặc biệt xuất sắc trong lĩnh vực trí tuệ. Họ thường là những nhà khoa học lớn, những doanh nhân lỗi lạc, những nhà văn kiệt xuất, những nhà tư tưởng uyên bác, những chính trị gia tài giỏi… Từ năm 1901, giải Nobel được thành lập và trở thành một giải thưởng uy tín nhất và danh giá nhất hành tinh, tôn vinh những người có đóng góp lớn nhất cho nhân loại, có những phát minh đột phá, những tác phẩm văn chương thấm đẫm tính nhân văn, những người có công lao kiến tạo một thế giới an bình hơn, tốt đẹp hơn. Người Do Thái lập tức trở thành một yếu tố quan trọng của giải, dù họ sống ở các nước khác nhau, mang quốc tịch khác nhau hoặc chính tại đất nước mới thành lập cách nay không lâu của họ là Israel. Tính đến năm 2011, giải Nobel đã trao 108 lần (trừ 4 năm trong Thế chiến I và II không trao giải) cho trên 800 nhân vật và các tổ chức xã hội. Nếu tính tất cả các giải, ít nhất có 181 người Do Thái (thuần chủng, hoặc từ 1/2 đến 3/4 dòng máu Do Thái) được trao giải Nobel, chiếm 22% số nhân vật được coi là những trí tuệ hàng đầu của nhân loại. Trong các giải Nobel qua hơn một thế kỷ, tỉ lệ số người Do Thái chiếm lĩnh các giải Nobel trong các lĩnh vực như sau: - Hoá học: 32 người, chiếm tỷ lệ 21% - Kinh tế: 28 người, chiếm tỷ lệ 42% - Văn chương: 13 người, chiếm tỷ lệ 12% - Vật lý: 49 người, chiếm tỷ lệ 27% - Hoà bình: 9 người, chiếm tỷ lệ 8%. Cần lưu ý rằng số người Do Thái trên Trái đất là 20 triệu (cả trong và ngoài nước) nghĩa là chưa đến 0,2% dân số thế giới. Như vậy, trong khi dân số thế giới là gần 8 tỷ với trên 800 giải Nobel, thì bình quân số giải trên đầu người của người Do Thái so với bình quân của thế giới cao hơn đến 11.950%. Song đó chỉ là so sánh cho vui thôi, chứ con số này không mấy ý nghĩa bởi kèm theo nó còn bao nhiêu điều kiện khác nữa. Người ta thường nói giải Nobel trong vài chục năm gần đây đổ dồn về Mỹ. Song ít ai để ý, trong những “giải Nobel mang thương hiệu Mỹ” thì người Mỹ gốc Do Thái chiếm một phần quan trọng. Xin nêu một vài con số: Giải Nobel Hoá học của Mỹ có 27% là người gốc Do Thái, Nobel Vật lý - 37%, Nobel Y học & Sinh lý học - 42%, Nobel Kinh tế - 55%, Nobel Văn chương - 27%, Nobel Hoà bình 10%. Và cũng xin nhớ rằng dân số của cộng đồng Do Thái chỉ bằng 2% của Mỹ. Trí tuệ Do Thái thể hiện không chỉ ở nam giới mà cả nữ giới. Trong 4 ngành khoa học có 18 nữ Nobel gia thì 36% là các bà gốc Do Thái, tỷ lệ còn cao hơn cả các ông. Nếu không kể giải Nobel, thì bất cứ giải quốc tế nào khác, tỷ lệ các nhà khoa học Do Thái cũng tương tự. Chỉ xin kể một giải chúng ta đã nói nhiều là giải Fields thì các nhà toán học trẻ người Do Thái được giải chiếm 27%, giải thành tựu suốt đời trong Toán học, họ chiếm tới 55%. Các Nobel gia người Do Thái cũng nằm trong một số “điều đặc biệt” của giải. Chẳng hạn Elia Wiesel, người sống sót từ trại tập trung của phát xít Đức được giải Nobel Hoà bình năm 1986. Nhà Nobel cao tuổi nhất khi được trao giải là người Balan gốc Do Thái, Leonid Hurwicz, giải Nobel kinh tế 2007 năm ông đã 90. Nobel gia sống thọ nhất là bà Rita Levi-Montalcini, giải Nobel Sinh lý học 1936 hiện đã vượt qua tuổi 102 hoặc một nhà văn bị nhà nước buộc không được nhận giải là Boris Pasternak, giải Nobel văn học năm 1958. Nhà khoa học được bình chọn là nhà khoa học vĩ đại nhất của thế kỷ XX - Albert Einstein – cũng là người Mỹ gốc Do Thái. Cả một dân tộc giỏi làm kinh tế Chúng ta đều biết người Do Thái (thời cổ gọi là Hebrew) là dân tộc thành công nhất trên nhiều lĩnh vực trí tuệ, nhưng có lẽ ít ai biết họ thực ra còn cực kỳ xuất sắc trên mặt kinh tế, tài chính, thương mại. Họ đạt được những thành tựu đó trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn: toàn bộ dân tộc Do Thái buộc phải sống lưu vong phân tán, “ăn nhờ ở đợ” suốt 2000 năm qua trên khắp thế giới, đi tới đâu (trừ ở Mỹ) cũng bị xa lánh hoặc hắt hủi, xua đuổi, tước đoạt, thậm chí hãm hại, tàn sát vô cùng dã man, bị cấm được sở hữu bất cứ tài sản cố định nào như nhà đất, tài nguyên thiên nhiên... Chỉ cần lướt các mạng tìm kiếm là ta có thể sưu tầm được ngay một số thành tựu cực kỳ gây ấn tượng của người Do Thái trên lĩnh vực kinh tế, dù là về mặt lý thuyết hay thực tiễn. Hãy xem một số số liệu sau đây: Rất nhiều nhà lý thuyết kinh tế hàng đầu thế giới là người Do Thái, các lý thuyết họ xây dựng nên đã ảnh hưởng vô cùng to lớn nếu không nói là quyết định tới quá trình trình tiến hóa của nhân loại: - Karl Marx (Các Mác) người khám phá ra “giá trị thặng dư” và xây dựng học thuyết kinh tế chủ nghĩa cộng sản sẽ thay thế cho chủ nghĩa tư bản, được gọi là một trong hai người Do Thái làm đảo lộn cả thế giới (người kia là Jesus Christ); - Alan Greenspan 17 năm liền được 4 đời Tổng thống Mỹ tín nhiệm cử làm Chủ tịch Cơ quan Dự trữ Liên bang (FED, tức Ngân hàng Nhà nước Mỹ) nắm quyền sinh sát lớn nhất trong giới tài chính Mỹ, thống trị lĩnh vực tài chính tiền tệ toàn cầu; - Paul Wolfowitz cùng người tiền nhiệm James Wolfensohn, hai cựu chủ tịch Ngân hàng Thế giới, tổ chức tài chính có tác dụng rất lớn đối với các nước đang phát triển; - 41% chủ nhân giải Nobel kinh tế thời gian 1901-2007 là người Do Thái (cộng 13 người), chẳng hạn Paul Samuelson (1970), Milton Friedman (1976) và Paul Krugman (2008)… là những tên tuổi quen thuộc trong giới kinh tế thế giới hiện nay, các lý thuyết của họ được cả thế giới thừa nhận và học tập, áp dụng... Nhiều nhà giàu nổi tiếng thế giới từng tác động không nhỏ tới chính trị, kinh tế nước Mỹ và thế giới là người Do Thái. Đơn cử vài người: - Jacob Schiff, chủ nhà băng ở Đức, sau sang Mỹ định cư; đầu thế kỷ XX do căm ghét chính quyền Sa Hoàng giết hại hàng trăm nghìn dân Do Thái ở Nga, ông đã cho chính phủ Nhật Bản vay 200 triệu USD (một số tiền cực kỳ lớn hồi ấy) để xây dựng hải quân, nhờ đó Nhật thắng Nga trong trận hải chiến Nhật-Nga năm 1905. Nhớ ơn này, trong đại chiến II Nhật đã không giết hại người Do Thái sống ở Trung Quốc tuy đồng minh số Một của Nhật là phát xít Đức Hitler có nhờ Nhật “làm hộ” chuyện ấy. - Sheldon Adelson, người giàu thứ 3 nước Mỹ, với tài sản cá nhân lên tới 36 tỷ USD. Nếu được chính phủ VN cho phép thì khả năng Sheldon Adelson sắp mở sòng bạc tại thành phố Hồ Chí Minh. - George Soros giàu thứ 22 ở Mỹ (19 tỷ USD) không chỉ nổi tiếng về giàu có mà ông còn là bậc thầy về những phi vụ đầu cơ đi vào lịch sử... - Michael Bloomberg có tài sản riêng 22 tỷ USD, làm thị trưởng thành phố New York đã 8 năm nay với mức lương tượng trưng mỗi năm 1 USD và là chủ kênh truyền hình Bloomberg nổi tiếng trong giới kinh tế. Cộng đồng Do Thái ở Mỹ chiếm một nửa tổng số người Do Thái trên toàn thế giới là quần thể thiểu số thành công nhất ở Mỹ dù chỉ chiếm 2,5% số dân. Khoảng một nửa số doanh nhân giàu nhất Mỹ, 21 trong số 40 nhà giàu đứng đầu bảng xếp hạng của tạp chí Forbes là người Do Thái, và cộng đồng Do Thái có mức sống bình quân cao hơn mức trung bình của nước này. Họ nắm giữ phần lớn nền kinh tế tài chính Mỹ, tới mức người Mỹ có câu nói “Tiền nước Mỹ nằm trong túi người Do Thái”. Nhờ thế trên vấn đề Trung Đông chính phủ Mỹ xưa nay luôn bênh vực và viện trợ Israel. Nước Israel nhỏ bé với hơn 5 triệu người Do Thái tuy ở trên vùng sa mạc khô cằn nhưng nông nghiệp và các lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật đều rất phát triển, dân rất giàu, GDP đầu người năm 2011 khoảng 31.500 USD (nguồn web CIA.gov). Nhờ sức mạnh mọi mặt ấy, quốc gia nhỏ xíu này đã đứng vững được trong làn sóng hằn thù và công kích của cả trăm triệu người Ả Rập xung quanh... Nguyên nhân do đâu? Vì sao người Do Thái giỏi làm kinh tế trên cả hai mặt lý thuyết và thực hành như vậy? Lịch sử đã chứng minh, yếu tố quyết định thành công của một dân tộc bắt nguồn từ truyền thống văn hóa của dân tộc ấy. Để tìm hiểu truyền thống văn hóa của dân tộc này có lẽ ta cần tìm hiểu các nguyên tắc chính của đạo Do Thái (Judaism), tôn giáo lâu đời nhất thế giới còn tồn tại tới ngày nay và là chất keo bền chắc gắn bó cộng đồng, khiến dân tộc này giữ gìn được nguyên vẹn nòi giống, ngôn ngữ, truyền thống văn hóa mặc dù phải sống phân tán, lưu vong và bị kỳ thị, xua đuổi, hãm hại, tàn sát dã man suốt 2000 năm qua. Có thể nói, nếu không có chất keo ấy thì từ lâu dân tộc Do Thái đã bị tiêu diệt hoặc đồng hóa và biến mất khỏi lịch sử. Đạo Do Thái là tôn giáo duy nhất thành công trên cả hai mặt: giữ được sự tồn tại của dân tộc và hơn nữa đưa họ vươn lên hàng đầu thế giới trên hầu hết các lĩnh vực trí tuệ. Muốn vậy, ta thử điểm qua vài nét về Kinh thánh của người Do Thái (Hebrew Bible) – kinh điển này hơn 10 thế kỷ sau được đạo Ki-tô lấy nguyên văn làm phần đầu Kinh Thánh của họ và gọi là Cựu Ước, nhằm phân biệt với Tân Ước do các nhà sáng lập Ki-tô giáo viết. Ta cũng cần xem xét một kinh điển nữa của đạo Do Thái gọi là Kinh Talmud, quan trọng hơn cả Cựu Ước, có đưa ra nhiều nguyên tắc cụ thể cho tới thời nay vẫn còn giá trị về kinh doanh, buôn bán. Trước hết người Do Thái có truyền thống coi kiến thức trí tuệ là thứ quý nhất của con người. Kinh Talmud viết: Tài sản có thể bị mất, chỉ có tri thức và trí tuệ thì mãi mãi không mất đi đâu được. Các ông bố bà mẹ Do Thái dạy con: Của cải, tiền bạc của chúng ta đều có thể bị kẻ khác tước đoạt nhưng kiến thức, trí tuệ trong đầu óc ta thì không ai có thể cướp nổi. Với phương châm đó, họ đặc biệt coi trọng việc giáo dục, dù khó khăn đến đâu cũng tìm cách cho con học hành; ngoài ra họ chú trọng truyền đạt cho nhau các kinh nghiệm làm ăn, không bao giờ giấu nghề. Người Do Thái có trình độ giáo dục tốt nhất trong các cộng đồng thiểu số ở Mỹ, thể hiện ở chỗ họ chiếm tỷ lệ cao nhất trong sinh viên các trường đại học hàng đầu cũng như trong giới khoa học kỹ thuật và văn hóa nghệ thuật. Thứ hai, đạo Do Thái đặc biệt coi trọng tài sản và tiền bạc. Đây là một điểm độc đáo khác hẳn đạo Ki-tô, đạo Phật, đạo Nho, ta cần phân tích thêm. Có lẽ sở hữu tài sản là một trong các vấn đề quan trọng nhất của đời sống loài người, là nguyên nhân của cuộc đấu tranh giữa con người với nhau (đấu tranh giai cấp) và chiến tranh giữa các quốc gia. Heghel, đại diện nổi tiếng nhất của triết học cổ điển Đức từng nói: “Nhân quyền nói cho tới cùng là quyền (sở hữu) về tài sản.” Chính Marx cũng nói: Chủ nghĩa cộng sản “là sự phục hồi chế độ sở hữu của cá nhân trên một hình thức cao hơn”. Rõ ràng, chỉ khi nào mọi người đều có tài sản, đều giàu có thì khi ấy mới có sự bình đẳng đích thực, người người mới có nhân quyền. Một xã hội có phân hóa giàu nghèo thì chưa thể có bình đẳng thực sự. Đạo Do Thái rất chú trọng nguyên tắc làm cho mọi người cùng có tài sản, tiền bạc, cùng giàu có. Triết gia Max Weber viết: “Đạo Ki-tô không làm tốt bằng đạo Do Thái, vì họ kết tội sự giàu có.” Quả vậy, Chúa Jesus từng nói: “Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Chúa” (Tân Ước, Mathew 19:24), ý nói ai giàu thì khó lên thiên đường, ai nghèo thì dễ lên thiên đường hơn – qua đó có thể suy ra đạo Ki-tô thân cận với người nghèo khổ. Nho giáo và đạo Phật lại càng khinh thường tài sản, tiền bạc, coi nghèo là trong sạch, giàu là bẩn thỉu. Ngược lại Cựu Ước ngay từ đầu đã viết: “Vàng ở xứ này rất quý” (Genesis 2:12). Ý tưởng quý vàng bạc, coi trọng tài sản vật chất đã ảnh hưởng lớn tới người Do Thái, họ đều muốn giàu có. Khái niệm tài sản xuất hiện ngay từ cách đây hơn 3000 năm khi vua Ai Cập bồi thường cho vị tổ phụ của bộ lạc Do Thái là Abraham, khiến ông này “có rất nhiều súc vật, vàng bạc” (Genesis 13:2). Thượng Đế Jehovah yêu cầu Abraham phải giàu để có cái mà thờ cúng Ngài. Thượng Đế cho rằng sự giàu có sẽ giúp chấm dứt nạn chém giết nhau. Khi Moses dẫn dân Do Thái đi khỏi Ai Cập cũng mang theo rất nhiều súc vật. Những người xuất thân gia đình giàu có hồi ấy như Jacob, Saul, David ... đều được Cựu Ước ca ngợi là có nhiều phẩm chất tốt, lắm tài năng, lập được công trạng lớn cho cộng đồng dân tộc và đều trở thành lãnh đạo, vua chúa. Ngược lại, văn hóa phương Đông thường ca ngợi phẩm chất của những người nghèo. Trọng tiền bạc là đặc điểm nổi bật ở người Do Thái. Họ coi đó là phương tiện tốt nhất để bảo vệ mình và bảo vệ dân tộc họ. Quả vậy, không có tiền thì họ làm sao tồn tại nổi ở những quốc gia và địa phương họ sống nhờ ở đợ, nơi chính quyền và dân bản địa luôn chèn ép, gây khó khăn. Hoàn cảnh ấy khiến họ sáng tạo ra nhiều biện pháp làm giàu rất khôn ngoan. Thí dụ cửa hiệu cầm đồ và cho vay lãi là sáng tạo độc đáo của người Do Thái cổ đại – về sau gọi là hệ thống ngân hàng. Buôn bán cũng là một biện pháp tồn tại khi trong tay không có tài sản cố định nào. Người ta nói dân Do Thái có hai bản năng: thứ nhất là bản năng kiếm tiền; thứ hai là bản năng làm cho tiền đẻ ra tiền – họ là cha đẻ của thuyết lưu thông tiền tệ ngày nay chúng ta đều áp dụng với quy mô lớn (còn ai kiếm tiền dễ hơn ngành ngân hàng?). Tuy vậy, sự quá gắn bó với tiền bạc là một lý do khiến người Do Thái bị chê bai. Bạn nào đã đọc tiểu thuyết Ai-van-hô (Ivanhoe) của Walter Scott chắc còn nhớ mãi hình ảnh ông lão Do Thái Isaac (I-sắc) đáng thương, bố của nàng Rebeca xinh đẹp và thánh thiện, lúc nào cũng khư khư giữ túi tiền và bị hiệp sĩ Đầu Bò nhạo báng khinh bỉ thậm tệ. Kịch của Shakespeare đưa ra nhiều hình ảnh khiến người ta có cảm giác người Do Thái bần tiện, ích kỷ, xảo trá. Tập quán cho vay lãi của người Do Thái bị nhiều nơi lên án. Hệ thống cửa hiệu của người Do Thái ở Đức là đối tượng bị bọn Quốc Xã Hitler đập phá đầu tiên hồi thập niên 30. Người Đức có câu ngạn ngữ “Chẳng con dê nào không có râu, chẳng người Do Thái nào không có tiền để dành.” Karl Marx từng viết: Tiền bạc là vị thần gắn bó với người Do Thái; xóa bỏ chủ nghĩa tư bản sẽ kéo theo sự xóa bỏ chủ nghĩa Do Thái. Marx nói như vậy nghĩa là đã thừa nhận người Do Thái tham dự sáng lập ra chủ nghĩa tư bản, một chế độ xã hội mới thay thế chế độ phong kiến và làm nên phần chủ yếu trong cộng đồng quốc tế hiện nay. Quả thật, người Do Thái có đóng góp rất lớn về lý thuyết và thực hành trong việc xây dựng nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Kinh Talmud viết: Mọi người phải yêu Thượng Đế với toàn bộ trái tim, cuộc đời và của cải của mình; mỗi người đều phải quan tâm tới tài sản; không ai được phép dùng tài sản của mình để làm hại kẻ khác và không ai được trộm cắp tài sản người khác; tài sản của một người nhưng không phải chỉ là của người đó mà phải dùng nó để giúp kẻ khác... Có thể hiểu “Yêu Thượng Đế với toàn bộ tài sản của mình” nghĩa là phải sử dụng tài sản riêng của mình theo lệnh Thượng Đế, nghĩa là phải chia bớt cho người nghèo. Quy ước này đã đặt nền móng cho tư tưởng nhân ái, bình đẳng của văn minh phương Tây. Từ đó ta dễ hiểu vì sao cộng đồng Do Thái ở đâu cũng giúp đỡ nhau để tất cả cùng giàu lên, không có ai nghèo khổ. Đạo Do Thái coi làm giàu là bổn phận nặng nề của con người; nói “nặng nề” vì người giàu có trách nhiệm to lớn đối với xã hội: họ không được bóc lột người nghèo mà phải chia một phần tài sản của mình để làm từ thiện. Những người Do Thái giàu có luôn sống rất giản dị, tiết kiệm và năng làm từ thiện. Soros từng cúng 4 tỷ USD (trong tổng tài sản 7 tỷ) cho công tác từ thiện. Không một nhà giàu Do Thái nào không có quỹ từ thiện của mình. Từ đây có thể hiểu được tại sao cộng đồng Do Thái lại cùng giàu có như thế. Người Do Thái luôn nghĩ rằng Thượng Đế giao cho họ nghĩa vụ và quyền làm giàu. Đây là động lực chủ yếu khiến họ ở đâu cũng lo làm giàu, không bao giờ chịu nghèo khổ. Hai nghìn năm qua, dù sống lưu vong ăn nhờ ở đợ các quốc gia khác và ở đâu cũng bị cấm sở hữu mọi tài sản cố định nhưng dân tộc này vẫn nghĩ ra nhiều cách kinh doanh hữu hiệu bằng các dịch vụ như buôn bán, dành dụm tiền để cho vay lãi … Muốn làm giàu, điều cơ bản là xã hội phải thừa nhận quyền tư hữu tài sản. Kinh Talmud viết: ai nói “Của tôi là của tôi, của anh là của anh” (mine is mine and yours is yours) thì là người bình thường (average); nói “Của tôi là của anh, của anh là của tôi” thì là kẻ ngu ngốc; nói “Của tôi là của anh và của anh là của anh” thì là ngoan đạo (godly); ai nói “Của anh là của tôi và của tôi là của tôi” là kẻ xấu (evil). Nghĩa là họ thừa nhận quyền tư hữu tài sản là chính đáng, không ai được xâm phạm tài sản của người khác. Tuy thừa nhận quyền sở hữu tài sản và luật pháp bảo vệ quyền đó, nhưng đạo Do Thái không thừa nhận quyền sở hữu tài sản tuyệt đối và vô hạn, cho rằng tất cả của cải đều không thuộc về cá nhân mà thuộc về Thượng Đế, mọi người đều chỉ là kẻ quản lý hoặc kẻ được ủy thác của cải đó. Tài nguyên thiên nhiên do Thượng Đế tạo ra là để ban cho tất cả mọi người, không ai có quyền coi là của riêng mình. Đây là một quan niệm cực kỳ tiến bộ và có giá trị hiện thực cho tới ngày nay: tài nguyên thiên nhiên, sự giàu có của đất nước là tài sản của toàn dân, tuyệt đối không được coi là của một số nhóm lợi ích hoặc cá nhân. Kinh Talmud viết nhiều quy tắc hữu dụng về kinh doanh. Chẳng hạn: - Vay một quả trứng, biến thành một trại ấp gà; - Bán nhiều lãi ít tức là bán 3 cái (lãi) chỉ bằng bán 1 cái; - Mất tiền chỉ là mất nửa đời người, mất lòng tin (tín dụng) là mất tất cả; - Nghèo thì đáng sợ hơn 50 loại tai nạn; - Giúp người thì sẽ làm tăng tài sản; ki bo chỉ làm nghèo đi; - Chỉ lấy đi thứ gì đã trả đủ tiền cho người ta; - Biết kiếm tiền thì phải biết tiêu tiền; v.v… So sánh Cựu Ước và Talmud với Tân Ước, có thể thấy đạo Do Thái là tôn giáo của người muốn làm giàu, còn đạo Ki-tô là tôn giáo của người nghèo. Khác biệt căn bản ấy là một trong các lý do khiến Giáo hội Ki-tô ngày xưa khinh ghét người Do Thái (hy vọng trong một dịp khác chúng tôi sẽ trình bày về vấn đề này). Từ sự phân tích sơ qua về quan điểm đối với tài sản và tiền bạc nói trên, có thể thấy hệ thống tư tưởng của đạo Do Thái rất phù hợp với quy luật tiến hóa của nhân loại và chính vì thế nó tạo dựng nên truyền thống văn hóa bất hủ của dân tộc Do Thái – nền móng vững chắc làm cho dân tộc này dù phải sống lưu vong không tổ quốc hàng nghìn năm nhưng cuối cùng vẫn là dân tộc thành công nhất trên hầu hết các hoạt động của loài người. Đồng thời các nguyên lý chính của đạo Do Thái đã tác động không nhỏ tới giáo lý đạo Ki-tô và đạo Islam; hai tôn giáo lớn này đều có nguồn gốc từ đạo Do Thái. Cuối cùng, nhờ có những điểm độc đáo nói trên, văn minh Hebrew của phương Đông trong quá trình giao lưu kết hợp với văn minh Hy-lạp của phương Tây đã sinh ra một nền văn minh mới – văn minh Ki-tô giáo, sau rốt trở thành nền văn minh phương Tây rực rỡ mấy nghìn năm nay. Có lẽ đây là thành tựu đáng kể nhất mà nền văn minh Hebrew đã đóng góp cho nhân loại. Điều đáng nói là, do các nguyên nhân lịch sử cực kỳ phức tạp, lâu nay người ta đã coi nhẹ nền văn minh Hebrew, và bây giờ đã đến lúc loài người nên sửa chữa sai lầm đó. Theo VFPRESS

Thứ Bảy, 4 tháng 4, 2015

KHÔNG ĐẾN MỘT NƠI NÀO

Nguyễn Duy Nhiên

Pico Iyer là một tác giả rất nổi tiếng trên thế giới, ông chuyên viết về du hành (travel writer). Bạn nghĩ nơi nào mà ông thích được đi đến nhất? Ông Iyer nói: không đi đâu hết.
Có lẽ trong chúng ta, ai cũng muốn đi đến một nơi nào có nhiều điều hay lạ, hoặc một nơi mà mình có thể được thật sự nghỉ ngơi, giúp ta cảm thấy tươi mới lại và cảm nhận sự sống sâu sắc hơn. Và theo như ông Iyer, một người đã từng đi khắp nơi trên thế giới, và cũng là một nhà văn chuyên viết về du hành, thì thật ra ta không cần phải đi đâu hết, vì nơi ấy cũng đang chính là bây giờ và ở đây.
   
Trong một tác phẩm mới nhất, The Art of Stillness, ông Iyer có viết về những tuệ giác sâu sắc mà sự tĩnh lặng, ngồi yên có thể mang lại cho chúng ta. Trong thời đại mà chúng ta lúc nào cũng đi đây đó, luôn muốn tìm đến một nơi chốn xa lạ hoặc một thú vui nào đó, câu trả lời của ông giúp ta có dịp nhìn lại cuộc sống bận rộn và vội vã của mình. Xin chia sẻ với bạn khám phá này của ông Pico Iyer.

Là một nhà du hành
“Cả đời tôi là một nhà du hành, a traveller. Từ khi còn là một đứa bé, tôi đã thuyết phục ba mẹ tôi rằng, cho tôi đi học nội trú ở Anh rẻ tiền hơn là theo học ở một ngôi trường nổi tiếng gần nhà, ở California. Và vì vậy mà từ lúc mới chín tuổi, mỗi năm tôi đã nhiều lần đi phi cơ một mình băng ngang qua Bắc cực, chỉ để đi đến trường.
   
Và càng được du hành tôi lại càng thêm yêu thích. Vì vậy mà ngay sau khi mới ra Trung học, lúc vừa được 18 tuổi, tôi đã xin một công việc lau bàn để có tiền đi thăm các nơi trên những lục địa khác nhau.
    
Rồi việc chắc chắn phải xảy ra, tôi trở thành một người chuyên viết về du hành, để công việc và niềm vui của mình được trở thành một.
   
Và tôi cảm nhận rằng, nếu như mình có may mắn được bước đi một mình trong những ngôi đền thờ tĩnh lặng với những ngọn nến thắp sáng ở Tây tạng, hay lang thang trên những bãi biển ở Havana với tiếng nhạc dập dìu chung quanh, tôi có thể mang những âm thanh ấy và bầu trời trong xanh, và ánh nắng lấp lóa trên đại dương xanh thẩm, về chia sẻ lại với những người bạn ở nhà, cũng như mang một sự kỳ diệu và trong sáng lại cho chính cuộc đời mình.
Không cần phải đi đến đâu
Điều đầu tiên mà chúng ta ai cũng biết, là khi đi du hành không có nơi nào là kỳ diệu hết, trừ khi ta có một cái nhìn đúng đắn. Nếu bạn mang một người nóng tánh đến Himalayas, anh ta sẽ bắt đầu phàn nàn, kêu ca về chuyện ăn uống. Và tôi khám phá ra một điều này, là cách hay nhất giúp ta phát khởi một cái nhìn sâu sắc và biết tán thưởng, nghe cũng hơi lạ, là bằng cách không đi đến đâu hết, chỉ cần ngồi cho yên.
    
Giữa cuộc sống vội vã này, có lẽ chúng ta ai cũng cảm thấy mình cần phải dừng lại để nghỉ ngơi. Nhưng theo tôi thì thật ra đó cũng là một cách duy nhất để cho ta có dịp xem lại cuốn slideshow về kinh nghiệm cuộc đời mình, để có thể hiểu sâu sắc hơn về quá khứ và tương lai. Và tôi cũng ngạc nhiên khi khám phá rằng, không đi đâu hết cũng thú vị và hấp dẫn như khi được đi du hành đến Tây tạng hay Cuba vậy.
   
Và không đi đâu hết, chỉ đơn giản có nghĩa là ta bỏ ra vài phút mỗi ngày, hay vài ngày trong mỗi mùa của năm, hay có người bỏ ra vài năm trong cả đời mình, để có thể ngồi yên và thấy ra được những gì thật sự thúc đẩy ta, biết được hạnh phúc chân thật của mình nằm ở nơi đâu. Và nhớ rằng, kiếm sống (making a living) và xây dựng cuộc sống (making a life) hai việc ấy đôi khi lại hoàn toàn nghịch hướng với nhau.
Do ở sự tiếp nhận của mình
Và dĩ nhiên điều này cũng đã được các bậc hiền nhân trong mọi truyền thống, qua bao thế kỷ, nói với chúng ta rồi. Hơn 2,000 năm trước đây, các triết gia Stoics đã nhắc nhở rằng, không phải kinh nghiệm làm nên cuộc sống này, mà do chúng ta tiếp nhận chúng như thế nào.
   
Ví dụ có một trận bão lớn kéo ngang qua vùng bạn ở và làm xập đổ hết tất cả. Một người thì cảm thấy hoàn toàn bất lực và tuyệt vọng. Còn một người khác lại cảm thấy tự do hơn, thấy rằng đây là cơ hội cho họ bắt đầu lại một cuộc đời mới. Không có gì là chỉ có tốt hay xấu, như văn hào Shakepeare nói với chúng ta trong “Hamlet”, mà tất cả đều do ở sự suy nghĩ của mình tạo nên mà thôi. Và vì vậy mà tôi nghĩ nếu như ta thật sự muốn thay đổi đời mình, thì có lẽ ta nên bắt đầu trước hết bằng cách thay đổi cái nhìn trong tâm ta.
   
Và như tôi nói, điều này cũng không có gì là mới mẻ hết, Shakespeare và triết gia Stoics cũng đã nói đến từ mấy thế kỷ về trước. Nhưng có điều là Shakepeare không phải đối diện với 200 emails mỗi ngày. Còn các triết gia Stoics thì cũng đâu phải lên Facebook. Chúng ta đều biết rằng trong cuộc sống nhiều đòi hỏi này, thì một trong những điều bị đòi hỏi nhiều nhất là chính chúng ta. Bất cứ ở nơi đâu, bất cứ khi nào ngày hay đêm, xếp của ta, những tin nhắn rác, ba mẹ ta, đều có thể tìm đến ta được.
    
Các nhà xã hội học có đủ dữ kiện để tuyên bố rằng, trong những năm gần đây người Mỹ làm việc ở công sở ít giờ hơn 50 năm về trước, nhưng lại cảm thấy mình phải làm việc nhiều hơn. Chúng ta có thêm những thiết bị công nghệ giúp tiết kiệm thời gian hơn, nhưng thời giờ mình có dường như lại càng ít đi hơn. Ngày nay, chúng ta có thể dễ dàng kết nối được với một người ở xa tận cùng trái đất, nhưng đôi khi trong quá trình đó ta lại đánh mất đi sự kết nối với chính mình.
Sự sáng tạo cần một không gian
Và một trong những điều làm tôi ngạc nhiên nhất là khám phá ra rằng, chính những người đã cung cấp những phương tiện giúp ta có thể đến được khắp mọi nơi, lại là những người không có một ý định đi đâu hết. Nói một cách khác, chính những người đã sáng tạo ra những kỹ thuật giúp chúng ta vượt thoát ra các giới hạn xưa cũ, lại là những người rất ý thức về sự cần thiết của những giới hạn, cho dù đó là trong lãnh vực của công nghệ.

Có lần tôi đến trung tâm Google headquarters, tôi chứng kiến được tận mắt những điều mà nhiều bạn đã nghe nói đến, như là bên trong có những căn nhà xây trên cây, có những chiếc trampolines, và nhân viên được lấy 20% giờ làm việc của mình để không làm gì hết, cho trí tưởng tượng rong chơi.
   
Nhưng điều tạo ấn tượng cho tôi nhất là một anh làm việc ở đó, một Googler, kể cho tôi nghe là anh đang chuẩn bị mở một chương trình đào tạo cho các bạn trong sở trở thành huấn luyện viên yoga. Một Googler khác chia sẻ rằng anh ta đang viết một quyển sách về “công cụ tìm kiếm của tâm hồn”, inner search engine, và khoa học ngày nay đã chứng minh được rằng ngồi yên, hay thiền tập, không những chỉ mang đến cho ta sức khỏe tốt, trí óc minh mẫn, mà còn làm tăng trưởng trí tuệ cảm xúc (emotional intelligence) của mình nữa.
   
Tôi có một người bạn khác sống ở vùng công nghệ Silicon Valley, anh ta tên là Kevin Kelly người sáng lập ra tờ Wired magazine, một tạp chí chuyên môn về những kỹ thuật mới. Trong quyển sách gần đây, anh Kelly viết về những công nghệ mới, mà trong khi nhà anh không hề có một chiếc điện thoại smart phone, hay một máy tính xách tay, hay một màn hình tivi. Và cũng giống như những người bạn khác trong vùng Silicon Valley, anh cố gắng tuân theo những ngày nghỉ mà họ gọi là Intenet Sabbath, không lên mạng internet. Mỗi tuần, trong vòng 24 hay 48 tiếng, họ hoàn toàn không lên mạng hay đọc email.


Thứ Sáu, 3 tháng 4, 2015

Tại sao nhiều người châu Âu gọi Đức là “Đệ tứ đế chế”?


Ngày 30/5/1941 là ngày mà Manolis Glezos đã nhạo báng Adolf Hitler khi ông và một người bạn của mình lẻn lên nóc thành cổ Acropolis ở Athens, tháo xuống rồi xé toạc lá cờ “Chữ vạn ngược” được quân Đức Quốc Xã treo lên 4 tuần trước đó khi chúng chiếm đóng Hy Lạp. Hành động này đã làm ông và người đồng chí của mình trở thành những người hùng.


Vào thời điểm đó, Glezos là một chiến binh kháng chiến. Nhưng hôm nay, người đàn ông sắp bước sang tuổi 93 hiện đang là một nghị viên thuộc đảng cầm quyền Syriza đại diện cho Hy Lạp tại Nghị Viện Châu Âu. Ngồi ở văn phòng của mình trên tầng ba, tòa nhà Willy Brandt, Brussel, ông kể lại câu chuyện về cuộc chiến chống lại phát xít ngày xưa cũng như cuộc chiến với nước Đức hiện đại. Mái tóc bạc bù xù khiến nhiều người ví von ông giống như là Che Guevara lúc về già. Từng nếp nhăn trên khuôn mặt của người chiến sĩ một thời lột tả những thăng trầm của cả một thế kỷ trôi qua trên lục địa già.
Ban đầu, ông tham gia cuộc chiến chống phát xít Ý, sau đó cầm vũ khí chống lại Lực lượng vệ binh Đức Quốc xã, và rồi hòa mình vào cuộc đấu tranh lật đổ chế độ độc tài do quân đội Hy Lạp thiết lập. Từng đó đã đủ cho ông phải bị vào tù nhiều lần. Tổng cộng ông đã mất gần 12 năm trong đời đằng sau chấn song sắt, khoảng thời gian ông dùng để viết thơ. Tuy nhiên, ngay khi vừa được thả ra, ông lại tiếp tục tham gia vào những cuộc chiến còn đang dang dở. “Những giây phút ấy vẫn còn rất sống động ở trong tôi”, ông nói.
Glezos biết rõ điều gì sẽ xảy ra khi người Đức muốn thống trị cả Châu Âu và khẳng định rằng đó chính xác là điều đang diễn ra vào thời điểm này. Tuy nhiên, lần này không phải là những quân đoàn người Đức cai trị Hy Lạp, mà là những doanh nhân và các chính trị gia người Đức. “(Tuy) Tư bản Đức thống trị Châu Âu và kiếm lời trên sự bất hạnh của người Hy Lạp”, ông nói. “Nhưng chúng tôi không cần tiền của các người”. Trong mắt của ông, nước Đức hiện tại đang trực tiếp kế thừa quá khứ khủng khiếp của nó. Tuy vậy, ông cũng nhấn mạnh rằng, ông đang ám chỉ đến tầng lớp lãnh đạo, chứ không phải là toàn bộ người dân Đức. Ông nói, giới lãnh đạo nước này lại đang một lần nữa trở nên hung hăng khi mà “mối quan hệ giữa Đức với Hy Lạp có thể được ví như là mối quan hệ của một kẻ bạo chúa và những người nô lệ”.
Glezos nhớ đến bài viết của Joseph Goebbels, Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền Đức Quốc xã, mô tả một Châu Âu trong tương lai nằm dưới sự cai trị của người Đức với tiêu đề là “Năm 2000”. “Goebbels thực ra chỉ dự đoán sai có 10 năm”, ông nói thêm, khi mà phải đến tận năm 2010, lúc mà cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra, mới là thời điểm đánh dấu sự bá chủ của người Đức.
Đã từng có thời gian dài, chỉ có người Đức là bị ám ảnh bởi quá khứ man rợ thời phát xít của đất nước mình. Nhưng gần đây, nhiều nước châu Âu khác đã bắt đầu biểu hiện rõ sự đề phòng với cái quá khứ ấy. Thủ tướng Angela Merkel với hàm ria của Hitler, những cỗ xe tăng Đức đang tiến về phía nam: Những hình ảnh biếm họa ấy tràn ngập trên các phương tiện truyền thông ở Hy Lạp, Tây Ban Nha, Anh, Ba Lan, Italia và Bồ Đào Nha trong những năm gần đây. Và biểu tượng “Chữ vạn ngược” của chủ nghĩa phát xít trở thành biểu tượng đại diện cho nước Đức trong tất cả các cuộc biểu tình của người dân các nước, phản đối chính sách thắt lưng buộc bụng do chính phủ nước này đề xướng.
Người ta bắt đầu nói về “Đệ tứ đế chế” (Fourth Reich) như là một sự kế thừa từ thuật ngữ “Đệ tam đế chế” của Adolf Hitler. Điều này thoạt đầu nghe có vẻ phi lý, khi mà nước Đức ngày nay là một mô hình dân chủ thành công và chứa đựng trong nó không còn một chút tàn dư nào của chủ nghĩa “Quốc xã” – và dĩ nhiên không ai có thể đánh đồng các chính sách của Merkel là theo thiên hướng phát xít. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận hoàn toàn ý nghĩa của từ “đế chế” (Reich, tiếng Anh: empire) trong hoàn cảnh hiện tại, khi mà từ này được dùng để diễn tả sự thống trị, chi phối cuộc sống của một trung tâm quyền lực lên nhiều người, nhiều quốc gia khác. Vậy dựa vào định nghĩa trên, liệu có phải là sai khi nói rằng, đúng là có tồn tại sự thống trị của người Đức trên phương diện kinh tế hay không?
Chiếc bóng quá khứ ám ảnh hiện tại
Thủ tướng Hy Lạp Alexis Tsipras đương nhiên nhận thức rõ là ông không thể tự do lèo lái đất nước theo cách mà ông muốn. Hôm thứ hai ngày 23/3, ông lên đường đến Berlin để dự hội nghị với người đồng cấp phía Đức, mà trong hội nghị đó, chủ đề về quá khứ “Quốc-xã” của người Đức sẽ được ông đề cập đến. Hy Lạp đã yêu cầu Đức chi trả tiền chi phí sửa chữa những thiệt hại do Phát xít Đức gây ra cho đất nước này trong suốt chiến tranh thế giới lần thứ hai. Những yêu sách này, tất nhiên, liên quan nhiều hơn đến sự tuyệt vọng của chính phủ Hy Lạp, khi họ đang cố gắng điều hành đất nước bằng những chính sách a-ma-tơ của mình. Tuy nhiên, không thể nói rằng, quá khứ của nước Đức sẽ không bao giờ trở nên liên quan và đáng để nêu ra nữa. Trái lại, nó hiện đang được lặp đi lặp lại ở nhiều nơi như là một chiếc bóng của quá khứ ám ảnh lên cuộc sống hiện tại.
Những sự buộc tội từ phía Hy Lạp, Tây Ban Nha, Pháp hay kể cả từ Anh và Mỹ đối với Đức đang ngày càng trở nên gay gắt hơn. Như cách mà nhiều chính trị gia, kinh tế gia và cả giới truyền thông mô tả, cuộc khủng hoảng châu Âu đã cho phép người Đức chi phối và bóp chẹt các nước Nam Âu, nhằm ép buộc những nước này tuân theo những nguyên tắc cứng nhắc của nước Đức. Trong hoàn cảnh đó, chính sách xuất khẩu của Đức lại đem về cho nước này lợi nhuận khổng lồ khi so sánh với tất cả những nước còn lại trong khối Euro. Hình ảnh nước Đức hiện ra trong mắt của nhiều nước thành viên như là một bạo chúa kinh tế ích kỷ được vây quanh bởi những quốc gia nhỏ thịnh vượng và chia sẻ chung một kiểu mẫu về lợi ích ở Bắc Âu.
Những người chỉ trích và buộc tội mạnh mẽ nhất đến từ những quốc gia, nơi đã phải chứng kiến một tỷ lệ thất nghiệp khủng khiếp và sự tức giận cực độ từ công chúng nước mình trong nhiều năm. Họ nói rằng những con quỷ của nước Đức đã trở lại. Và vì thế không có gì là đáng ngạc nhiên khi mà nhiều chính phủ lại bỗng dưng bị bẽ mặt và đòi nước Đức phải thanh toán những món nợ nó gây ra trong quá khứ. Tội lỗi của người Đức trong thời kỳ phát xít giờ trở thành một vũ khí gây náo động hiệu quả của những chủ thể bất lực. Tuy trong nhiều cuộc thăm dò ở nước ngoài, Đức thực ra là một đất nước được nhiều người ngoại quốc kính nể. Nhưng với người dân Châu Âu hiện nay, họ sẽ buộc phải lôi lại chuyện cũ và gào thét khi mà những chính sách do người Đức đề xướng đang trở nên không mấy dễ chịu đối với họ.
Có một điều đáng lưu ý là, những cáo buộc đối với chính phủ Đức có một luận điệu kết hợp kỳ lạ rằng, nước Đức đang áp đảo, chứ không phải đang thực quyền lãnh đạo. Nó đang bá quyền, nhưng thực ra lại là một bá chủ yếu ớt. Điều này sẽ khiến nhiều người nhớ lại nội dung của cuốn sách “Từ Bismarck đến Hitler” được xuất bản vào năm 1987 của nhà sử học Sebastian Haffner, trong đó ông có viết rằng nước Đức tại thời điểm chuyển giao thế kỷ đang mang một kích thước thật kỳ lạ. Nó vừa quá lớn lại vừa quá nhỏ. Điều này có vẻ đang đúng một lần nữa.
Vậy vai trò của nước Đức ở lục địa già cụ thể là như thế nào khi được nhìn dưới lăng kính của cả người dân trong nước và người ngoại quốc?
Bóng dáng của những sư đoàn xe tăng Đức
Nằm cạnh sàn chứng khoáng Milan, nơi cách đó không xa có một tượng đá mang hình một bàn tay đang giơ ngón tay thối cao 11 mét như đang châm biếm cho sự thoái trào của nền tài chính thế giới, là tòa nhà trụ sở của nhật báo Il Giornale. Ngồi bên trong văn phòng mà khi xưa là của nhà báo nổi tiếng người Ý – Indro Montanelli, là một nhà báo kỳ cựu khác năm nay đã 71 tuổi – Vittorio Feltri. Ông đã tác nghiệp hơn một nửa thế kỷ tại nhật báo Corriere della Sera và một vài tờ báo khác. Vào năm ngoái, ông và một nhà báo nổi tiếng khác là Gennaro Sangiuliano, phó tổng biên tập cho kênh truyền hình quốc gia Rai 1, đã cùng hợp tác xuất bản một cuốn sách đáng chú ý với tựa đề: “Đệ tứ đế chế: Cách mà nước Đức khuất phục cả châu Âu”.
Nói thêm rằng, đây không đơn giản chỉ là suy nghĩ của một vài người cấp tiến tuyệt vọng cố tìm ra điểm giống nhau giữa hiện tại và quá khứ. Còn có nhiều học giả đáng kính và nhiều công dân ưu tú khác, những người mà không vướng bận bởi những lo lắng về cơm áo gạo tiền thường ngày, giống như Feltri và Sangiuliano, chia sẻ chung một quan điểm với họ.
Hai tác giả cho rằng, đồng euro chính là một phương tiện thống trị của người Đức và do đó phải được xếp ngang hàng với những sư đoàn xe tăng thiện chiến của Đức quốc xã ngày xưa. Đồng Euro chính là công cụ đảm bảo sự thống trị của người Đức. Và tòa án hiến pháp liên Bang Đức Bundesverfassungsgericht cũng nên được so sánh như là một thứ vũ khí phát xít. Đặc biệt, họ mô tả thủ tướng Đức, với tên châm biếm là Merkiavelli – được ghép từ tên của thủ tướng Merkel và cố học giả Machiavelli, với ý nghĩa mô tả sự láu cá, hai mang và thực dụng trong nghệ thuật quản lý nhà nước của Merkel – cùng với chính phủ tự phụ của mình đang cố hoàn thành cái kế hoạch mà Hitler ngày xưa còn làm dang dở. Cuốn sách, nói như Feltri, như một án văn luận chiến công kích “sự không thích hợp đến vô lý của việc sử dụng một đồng tiền chung, thứ mà duy nhất chỉ có nước Đức là được hưởng lợi từ nó”.
Một bộ phận lớn chính trị gia Ý chia sẻ cách nhìn của Feltri. Vào năm ngoái, thành viên Đảng dân chủ xã hội Romano Prodi, cựu chủ tịch của Hội đồng châu Âu, đã gây ngạc nhiên khi xuất bản một bài xã luận trên chuyên trang L’Espresso, trong đó có đoạn: “Ở Đức, những người theo chủ nghĩa dân túy và chủ nghĩa dân tộc thì được dạy dỗ và dẫn dắt bởi Merkel”, ông tiếp tục. “Tuy nhiên, ở Brussels trong những năm gần đây, lại chỉ có một quốc gia duy nhất xác định hướng đi của cả Liên minh; Đức thậm chí tự xem mình là đủ tư cách để dạy bảo những thành viên khác những bài học về đạo đức theo một cách không thể chấp nhận được”.
Trong khi thủ tướng Italia Matteo Renzi thì thận trọng khi nhấn mạnh tầm quan trọng của việc gần Đức, những tiếng nói cực đoan từ phía cánh hữu đang ngày càng trở nên gay gắt hơn. Chuyên gia nghiên cứu về nước Đức, Luigi Reitani đã phát biểu trong một hội nghị vào cuối năm ngoái rằng một số người Ý đã bắt đầu vẽ ra “một đường gạch nối từ những cuộc xâm lược man rợ trong quá khứ của Bismarck và Hitler tới (những chính sách của) Merkel”.
Ở Pháp, những luận điệu tương tự thế này xuất hiện một cách thường xuyên. Vào năm 2011, Arnaud Montebourg, người sẽ nắm cương vị Bộ trưởng Kinh tế một khoảng thời gian sau đó, nói rằng “Bismarck đã liên kết những nguyên tắc kỷ luật đậm chất Đức để cai trị Châu Âu, đặc biệt là để cai trị Pháp. Tương tự một cách đáng nhạc nhiên, Angela Merkel đang cố gắng giải quyết các vấn đề trong nước bằng cách áp đặt những nguyên tắc kinh tế và tài chính được hậu thuẫn bởi những người bảo thủ trong nước lên phần còn lại của Châu Âu”. Theo một cách nói khác, những chính sách bành trướng của Đức đã hiện diện trở lại, ít nhất là trên địa hạt kinh tế.
Trả bằng máu của người dân chúng ta
Nỗi sợ hãi trước sự bá chủ của người Đức đối với châu Âu sẽ không ở đâu bằng được ở Pháp, nơi mà một phần lớn lãnh thổ từng bị người hàng xóm của mình chiếm đóng đến ba lần trong vòng 80 năm. Đặc biệt là trong những năm gần đây, phong trào bài Đức phát triển một cách mạnh mẽ trên địa hạt chính trị, từ Đảng cực hữu Mặt trận quốc gia đến những người tả khuynh trong Đảng Dân chủ cầm quyền. Tuy mục đích một phần của phong trào này là nhằm hướng sự chú ý của công chúng ra khỏi những thất bại chính trị của các nhà lãnh đạo nước này trong việc thực thi cải cách, nhưng ý nghĩa và tác động của nó vẫn đáng được xem xét một cách nghiêm túc.
Nhà trí thức cánh tả Emmanuel Todd cảnh báo rằng, nước Đức đang “đẩy nhanh việc theo đuổi chính sách khuếch đại quyền lực và giấu mình (vào châu Âu)”. Châu Âu hiện đang bị cai trị bởi một nước Đức mà trong quá khứ liên tục nhầm lẫn giữa tính hoang tưởng tự đại của mình với luận lý. Kể từ lúc thống nhất, Todd nói tiếp, nước Đức đã biến một phần lãnh thổ rộng lớn ở phía đông Châu Âu, khu vực mà một thời chịu sự ảnh hưởng của Liên Xô, đặt dưới sự kiểm soát của nó, nhằm thực hiện những mưu đồ kinh tế của mình.
Ở Athens, trong tòa nhà của Bộ Văn hóa, Nikos Xydakis, thứ trưởng Văn hóa của chính quyền Syriza, bày tỏ sự quan ngại của mình.
“Hoàn cảnh hiện nay giống như là đất nước chúng tôi đang phải hứng chịu hậu quả của một cuộc chiến tranh vậy”. Ông nói thêm rằng, chính sách cứu trợ của Châu Âu đã phá hủy Hy Lạp khi mà “nó đã khiến chúng tôi đánh mất một phần tư tổng sản phẩm quốc dân GDP và ép một phần tư dân số lâm vào cảnh thất nghiệp”. Hơn nữa, ông nhấn mạnh, Hy Lạp đã không đòi hỏi những khoản vay cứu trợ khẩn cấp, mà trái lại, Hy Lạp bị ép phải nhận chúng cùng với chương trình thắt lưng buộc bụng, thứ mà khiến “chúng tôi phải trả bằng chính máu của người dân nước mình”.
Theo lời của ông, nước Đức đã trở nên quá quyền lực ở Châu Âu. Nước này hiện là lãnh đạo duy nhất cả về mặt chính trị và kinh tế. “Nhưng nếu một quốc gia muốn trở thành lãnh đạo thì phải cư xử cho đúng với địa vị của mình”. Ông muốn nước Đức phải trở nên hào phóng hơn và dừng ngay việc coi những nước yếu hơn ở châu Âu như là những đất nước của kẻ hạ đẳng. Xydakis nói thêm rằng, ông đã phải bỏ tiền ra thuê lại văn phòng này vì nguyên cả tòa nhà công quyền đã bị bán đi để trả nợ. “Tôi cảm giác như là chúng tôi hiện đang ở Leipzig hay Dresden khi mà những thành phố này bị ném bom vậy”. Điểm khác biệt duy nhất theo ông chính là những quả bom ngày nay mang hình hài là những biện pháp cứu trợ.
Đối với ông và cũng như hầu hết những tiếng nói chỉ trích khác đối với chính sách của Đức, chỉ duy nhất một từ là trọng tâm trong những lời phàn nàn của họ: đó là austerity (thắt lưng buộc bụng). Nó mô tả chính sách tiết kiệm triệt để, một thuật ngữ được phổ biến và đón nhận một cách tích cực ở Đức. Nhưng đối với các quốc gia châu Âu chịu ảnh hưởng khủng khiếp từ cuộc khủng hoảng nợ công, thực thi chính sách này giống như là bị các thế lực bên ngoài tước đoạt đi phúc lợi của mình trong tuyệt vọng vậy. Đức ngày nay không còn đơn giản chỉ là một nước xuất khẩu hàng hóa, nó hiện còn đang xuất khẩu cả luật lệ ra bên ngoài biên giới của mình.
Chính sách trọng thương thái quá
Hàng hóa, tất nhiên là được trao đổi mà không có bất cứ một sự cưỡng ép nào. Người dân châu Âu ưa thích những hàng hóa được sản xuất từ Đức. Chính vì thế, chỉ riêng phần thặng dư thương mại trong năm 2014 đã chiếm hơn 7% tổng sản phẩm đầu ra của cả nền kinh tế nước này. Thặng dư thương mại chính là phần chênh lệch mà nước Đức thu được, khi nó xuất khẩu nhiều hàng hóa hơn là nhập khẩu từ các nước khác. Phần thặng dư này, tới phần nó lại thường chảy từ Đức ra bên ngoài dưới dạng xuất khẩu vốn. Nói một cách khác, những ngân hàng ở Đức sẽ cho những công ty ở nước ngoài vay tiền, để họ có thể, đến lượt mình, mua hàng hóa do Đức sản xuất.
Kể từ lúc thế giới bước qua thiên niên kỷ mới cho đến nay, phần thặng dư thương mại của Đức đã tăng gấp bốn và đạt mức 217 tỷ euro. Chỉ riêng giao dịch với Pháp đã tạo ra thặng dư thương mại lên tới 30 tỷ euro. Và dù cho khối lượng xuất khẩu của Đức tới các nước thành viên trong liên minh bị sụt giảm do ảnh hưởng của cuộc suy thoái, không có bất cứ quốc gia nào trên thế giới lại đạt được thặng dư thương mại lớn như Đức. Tại sao lại như vậy? Có phải bởi vì chính sách trọng thương thái quá của chính phủ Đức hay không?
Câu trả lời cho vấn đề này có thể được giải đáp bởi nhà kinh tế học người Đức Henrik Enderlein. Ông hiện đang là giáo sư kinh tế chính trị tại trường Hertie School of Governance tại Berlin. Ông từng theo học tại Pháp và Mỹ, từng làm việc tại ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) và có cơ hội giảng dạy tại Harvard. Hiện ông cũng đang là cố vấn kinh tế của Đảng Dân chủ xã hội của Đức và cha ông đã từng là một chính trị gia khuynh hướng tự do dân chủ và thân thiện với giới doanh nhân. Có thể nói rằng, ông có khả năng nhìn nhận các vấn đề quốc tế một cách bao quát hơn và không chỉ qua lăng kính của quốc gia mình. “Khi bàn đến việc nước Đức hiện đang có thặng dư thương mại lớn nhất thế giới thì đơn giản là chỉ có một nguyên nhân duy nhất lý giải điều này”, ông nói. “Đó là sau khi khu vực đồng Euro được thành lập, chúng tôi đã không có lựa chọn nào khác là phải trở nên cạnh tranh hơn. Nhưng thật là vô lý khi tin rằng nước Đức làm vậy với mục đích là để gây hại cho các nước khác trong khối”.
Enderlein tin rằng, nước Đức đã không chủ ý gây nên tình trạng khó khăn hiện nay, mà thực ra chính cấu trúc của khu vực đồng Euro là nguyên nhân chính cho điều đó. Ông cũng tin rằng, ECB phải chịu một phần trách nhiệm, bởi vì trong những năm đầu sau khi đồng Euro được dùng làm đồng tiền chung trong khu vực, thể chế này đã giữ cho lãi suất trên thị trường ở mức 3-4%/năm. Đối với những nước Nam Âu, lãi suất này là quá thấp và dẫn đến việc tạo ra những bong bóng giá cả và lương. Nhưng ngược lại đối với Đức, lãi suất này lại quá cao và những nhà sản xuất đã không còn lựa chọn nào khác ngoài việc phải trả lương thấp cho lao động, nhằm giữ cho sản phẩm của mình vẫn còn tính cạnh tranh. Nhìn sơ qua, sự ép lương nhân tạo này không mang tính thái quá một chút nào, nhưng các nước Nam Âu lại buộc tội nó nặng nề.
Việc chần chừ tăng lương của Đức đã đóng góp nhiều cho sự tăng trưởng, sự tự tin và tất nhiên là cả sự gia tăng quyền lực và vị thế của Đức. Khi Angela Merkel đến Brussels, bà hiện diện với tư cách là nhà lãnh đạo của nền kinh tế lớn nhất châu Âu. Và vì thế, nếu bà không đồng ý với chính sách nào thì chính sách đó chắc chắn sẽ không được thông qua. Quyền lực này không phải là điều xấu khi được sử dụng một cách khôn ngoan. Nhưng có thực là họ đã làm đúng như thế hay không?
Thực tế có phần là ngược lại khi mà đã bắt đầu xuất hiện một “giọng điệu” mới ở Đức. Thứ giọng điệu này không phải là sản phẩm của một chính sách ngoại giao mềm dẻo và hiệu quả. Những sự thì thầm, đề xuất và hướng dẫn truyền thống đã bị thay thế bởi những lối nói ba hoa và khoác lác.
“Giọng điệu” mới này được dễ dàng tìm thấy ở phát ngôn sau đây của bộ trưởng tài chính Đức Wolfgang Schäuble. Khi nói về Hy Lạp, ông quả quyết rằng “một quốc gia mà cả hàng thập kỷ nền kinh tế của nó đã bị tổn thương, nhưng người dân của quốc gia này lại sống phung phí, đó là do sự lãnh đạo tồi của giới tinh hoa nước này – không phải là vì châu Âu, không phải vì Brussels và tất nhiên không phải vì Berlin mà duy nhất là chỉ bởi vì vì sự thất bại của giới lãnh đạo nước này – và nay họ bị bắt buộc (bởi chúng ta để) quay trở lại mặt đất. Rồi khi mà những người chịu trách nhiệm xuyên tạc sự thật này với người dân nước họ, thì thật không có gì đáng ngạc nhiên khi mà công chúng lại cư xử như cách chúng ta thấy hiện nay”. Phát biểu này được ông đưa ra tại một sự kiện của Quỹ theo khuynh hướng trung hữu Konrad Adenauer.
Chủ nghĩa đắc ý (Triumphalism)
Một ngày trước phát biểu của Schäuble, bộ trưởng tài chính bang Bavaria của Đức, Markus Söder cũng đã diễn đạt một ý kiến tương tự trong một show truyền hình với bộ trường tài chính Hy Lạp Yanis Varoufakis. Ông cũng không bỏ qua cơ hội này để mà khoe khoang về sức mạnh kinh tế và tài chính của bang mình.
Volker Kauder, thủ lĩnh phe bảo thủ đa số trong quốc hội Đức, là một ví dụ điển hình của một người theo chủ nghĩa đắc ý, và là một đại biểu của “giọng điệu” mới. Quay trở lại năm 2011, tại một hội nghị của đảng Dân chủ thiên chúa giáo CDU của thủ tướng Merkel ở Leipzig, Kauder phát biểu rằng: “Đột nhiên, tiếng Đức lại được sử dụng rộng rãi ở châu Âu”. Mặc dù các đại biểu của đảng bảo thủ CDU thích câu nói này, nhưng bên ngoài lại có ác cảm với nó và điều đó đã khiến Kauder hứa rằng ông sẽ không bao giờ phát ngôn như thế một lần nữa.
Merkel, tất nhiên, là sẽ không bao giờ chấp nhận một giọng điệu như vậy, hay ít nhất là theo một cách công khai. Bà lúc nào cũng tỏ ra rất cẩn thận khi phát ngôn. Thậm chí nhiều lúc, những lời nói của bà mơ hồ đến mức dường nó không đủ để diễn đạt ý tứ mà bà muốn truyền tải. Trong một lần, bà nói trước những nghị viên đảng bảo thủ của bà ở Berlin rằng “nước Đức phải nên là một quốc gia không bỏ qua bất cứ một điều gì chưa thử làm trong việc tìm kiếm một tiến trình (giải pháp)”. Tiến trình ở đây, theo dụng ý của bà, là cho một nơi khác ngoài Đức, ví dụ như ở Hy Lạp.
Ở một khía cạnh khác, các kế hoạch của bà thủ tướng quá bao quát đến nỗi từng có nhiều người mỉa mai là mục đích của nó là để tạo ra một “Đế chế của Merkel”. Bà không hề tỏ ra mặn mà với ý tưởng châu Âu là chủ thể chính như người tiền nhiệm của mình, thủ tướng Helmut Kohl, người muốn được nhìn thấy nước Đức hòa tan vào trong Châu Âu. Trái lại, Merkel nghĩ nhiều hơn từ phương diện “quốc gia dân tộc”, nhưng bà cũng nhận ra rằng nước Đức đứng một mình thì sẽ có ít ảnh hưởng lên các vấn đề quốc tế. Các đất nước muốn có tiếng nói trên trường quốc tế thì phải sở hữu một dân số lớn và một nền kinh tế mạnh. Nước Đức có trong tay cái thứ hai, nhưng so với Trung Quốc hay Mỹ lại thiếu yếu tố đầu – đó là nguyên nhân vì sao nước Đức lại cần một Châu Âu đông dân. Tuy nhiên, đó cũng cần phải là một Châu Âu giàu sức cạnh tranh và sở hữu một nền kinh tế mạnh hơn, và đây chính xác là điều mà Merkel đang hướng tới.
Vào giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng đồng euro, bà triển khai một ý tưởng phân loại tên là benchmarking (đánh giá theo tiêu chuẩn). Ý tưởng này yêu cầu những quốc gia Châu Âu phải được phân loại theo từng phạm trù và phải được đánh giá xếp hạng dựa trên sự so sánh của từng quốc gia với đối tượng tốt nhất trên mỗi phạm trù cụ thể, và thường đối tượng này là Đức. Có thể hiểu, qua cách làm này, một Châu Âu cho người Đức sẽ được tạo ra.
Khi mà cả châu Âu đang vật lộn đối phó với cuộc khủng hoảng nợ tại Ireland, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Cyprus và Hy Lạp, đã có hai phương pháp tiếp cận khác nhau để giải quyết vấn đề được nêu ra. Các quốc gia Nam Âu thì muốn kích thích tăng trưởng thông qua sự gia tăng chi tiêu công với kỳ vọng rằng quốc gia của mình sẽ tiếp tục tiến lên phía trước. Đức và các nước Bắc Âu khác, ngược lại, lại lựa chọn biện pháp tiết giảm chi phí và thực hiện cải cách cấu trúc nền kinh tế.
Và nước Đức hùng mạnh đã tìm ra được một cách để áp đặt hướng đi này, ép các nước khác đi “trên đường ray” của nước Đức, bằng cách đưa Quỹ tiền tệ quốc tế IMF thay thế Đức đảm nhận vị trí là một giám sát viên nghiêm ngặt. Tuy nhiên, vẫn là Berlin giữ trọng trách chính trong mọi quá trình.
Vào thời điểm ban đầu trước khi kế hoạch được thông qua, những lãnh đạo châu Âu khác đã dám phản đối ý tưởng trên một cách công khai. Thủ tướng Ba Lan Donald Tusk nói rằng ông có “những sự nghi ngờ nhất định đối với phương pháp này” và hỏi người đồng cấp Merkel tại một hội nghị của EU: “Tại sao bà lại cố gắng tạo ra sự ly gián này giữa chúng ta?”. Nhưng chưa đầy một năm sau đó, Merkel đã đạt được một thắng lợi quan trọng khi một hiệp ước tài khóa đậm chất Đức được thông qua ở cấp Châu Âu. Ngoài ra, các lãnh đạo EU cũng đồng ý thiết lập trần vay mượn của những thiết chế hiến pháp trong nước, và áp đặt những biện pháp trừng phạt đối với những quốc gia vi phạm trần vay mượn, cũng như thông qua những cải cách hệ thống mà nước Đức đã tự bản thân thực hiện từ năm 2003-2005. Như nhà xã hội học người Đức Ulrich Beck ví von, sức ép mà Berlin áp đặt lên toàn Châu Âu là bằng chứng của chủ nghĩa “Merkiavellismus”.
“Madame Non”(Quý bà nói Không)
Sự thay đổi trong cách tiếp cận của Đức trong việc giải quyết các vấn đề của Châu Âu đã thay đổi một cách ngoạn mục. Trong khi thủ tướng Helmut Kohl thì cố gắng né tránh sự cô lập có thể phát sinh khi bàn đến các thỏa thuận quan trọng bằng mọi giá, thì người kế nhiệm của ông, bà Merkel lại hoàn toàn bác bỏ cách làm này. “Tôi thà là bị cô lập trong EU còn hơn, nhưng tôi không quan tâm. Vì việc tôi làm là đúng”, bà đã phát biểu như vậy trong một cuộc thảo luận về vai trò của IMF tại châu Âu với một tổ các cố vấn. Sau đó, bà còn nhấn mạnh: “Vị thế của chúng ta trong châu Âu giống như vị thế của Mỹ trên trường quốc tế: đều là những lực lượng lãnh đạo không được yêu mến”.
Chủ tịch nghị viện Châu Âu Martin Schulz nói rằng khi ông vận động tranh cử ghế chủ tịch Hội đồng Châu Âu năm 2014 với tư cách là thủ lĩnh phe trung tả, thì thường bị hỏi rằng: “Bằng cách nào mà ông nghĩ ông có thể chạy đua cho chức chủ tịch Hội Đồng Châu Âu? Ông là người Đức mà”. Schulz được cho là thông thạo bốn ngoại ngữ và dành hầu hết thời gian trong sự nghiệp chính trị của mình cho công việc ở Brussels. Ông đã dành nhiều thời gian cho việc xây dựng một mối quan hệ hữu hảo giữa Đức và Pháp. “Tôi được xem như là một phần trong kế hoạch thống trị của người Đức”, ông nói. “Có một cảm giác chung là nước Đức đã trở nên quá quyền lực, nhưng khi bạn đề cập đến vấn đề này (với những người xung quanh) thì bạn sẽ không bao giờ nhận được một câu trả lời thật.”
Nhiều quan chức kỳ cựu tại phủ thủ tướng Đức đã tìm cách lý giải bằng cách nào mà nhiều người lại nhìn nhận vấn đề như vậy. Họ cho rằng, lý do chính là vì Đức đã đóng vai trò quá lớn trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng đồng Euro. Chỉ có những chính phủ quốc gia (ý nói Đức) là đủ khả năng để vận động tiền cứu trợ đủ nhanh để hỗ trợ những quốc gia trong khối khác. Ngoài ra, khi mà nền kinh tế của nước Pháp càng đình trệ, thì quyền lực của Đức lại càng gia tăng một cách rõ ràng.
Merkel nhiều lúc được mô tả là một “Madame Non”. Khi một trong những lãnh đạo EU kết thúc bài phát biểu của mình tại cuộc họp chung của liên minh châu Âu ở Brussel, mọi người thường ngay lập tức dò xét nét mặt của bà để đoán thái độ của bà trước bài phát biểu ấy.
Nhưng liệu có quá đáng khi vẽ biếm họa bà với bộ ria Hitler? Và mô tả nước Đức hiện nay là “Đệ tứ đế chế”?
Quay trở về một chút vào thời điểm mà những người phát xít tự gọi nước Đức của họ là “Đệ tam đế chế” trong một nỗ lực để khẳng định sự kế thừa của họ với hai kỷ nguyên cai trị Châu Âu trước đó của người Đức. Đệ nhất đế chế là Đế chế La Mã thần thánh vào thời trung cổ. Không chỉ là quốc gia của chỉ một dân tộc, đó là kỷ nguyên mà phần lớn lãnh thổ Châu Âu kéo dài tới tận Sicily được cai trị bởi hầu hết các hoàng đế người Đức. Thời kỳ này chỉ kết thúc vào năm 1806 khi mà Napoleon chinh phục nhiều vùng đất một thời thuộc đế chế này. Đệ nhị đế chế bắt đầu từ lúc mà Bismarck thành lập nên Kaiserreich vào năm 1871 sau khi chiến thắng Đan Mạch, Áo và Pháp. Nhiều tiểu bang khác của người Đức sau đó đã tự động gia nhập vào đế quốc Phổ. Đó là lý do vì sao Bismarck được coi như là người tạo nên bộ khung lãnh thổ của nước Đức đương đại. Ngày 1/4 năm nay là lễ kỷ niệm 200 năm ngày sinh của ông.
Nhưng sau khi sáng lập nên Kaiserreich, một thứ cảm xúc nguy hiểm bắt đầu lan rộng. Đó là sự tự cao, ngạo mạn của người Đức, một thứ cảm giác cho rằng dân tộc mình là tối thượng so với các chủng tộc khác. Nhưng thật ra, đây lại chính là một loại cảm xúc pha trộn giữa sự hèn nhát và cảm giác bị đe dọa.
Nhường lại sự thống trị cho những quốc gia khác
Đế chế của Bismarck, dưới thời Hoàng đế Wilhelm II từ năm 1888, có một kích cỡ rất bất tiện. Nó quá lớn theo nghĩa rằng nó là một quốc gia quyền lực nhất châu Âu, đe dọa Pháp, Anh và Nga cùng thời. Tuy nhiên nó vẫn còn quá nhỏ để có thể tự mình cai trị cả châu Âu. Người Đức rất kém trong việc thành lập liên minh với các quốc gia khác – và chính yếu tố này và yếu tố nội bộ là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Đế chế Kaiserreich bị thua trong cuộc chiến này và kết quả là bị tan vỡ vào năm 1918.
Hitler tin rằng nước Đức vĩ đại của y là đã đủ lớn mạnh để cai trị Châu Âu, và tất nhiên y đã sai lầm nghiêm trọng. Ngay cả khi sử dụng những chiến lược quân sự láu cá và thi hành việc đàn áp tàn bạo, phát xít Đức vẫn không đủ sức đánh bại phe Đồng Minh. Sau sự sụp đổ của “Đệ tạm đế chế”, sự thống trị của người Đức trên lục địa già được coi là không bao giờ có khả năng xảy ra một lần nữa. Cả Tây Đức và Đông Đức lúc đó chỉ là những nhà nước thử nghiệm, và dù ít dù nhiều vẫn phải dựa dẫm vào những người “anh lớn” là Mỹ và Liên Xô. Thời điểm đó, họ nhường quyền lực cho những nước khác.
Tuy nhiên, Tây Đức lại sớm phát triển nên một công cụ kinh tế đầy quyền lực lúc bấy giờ: đồng Mark. Nền kinh tế Tây Đức sau đó phát triển rất nhanh và nợ quốc gia của nó quay trở về mức an toàn. Ngoài ra, Ngân hàng Trung ương Đức Bundesbank bắt đầu có ảnh hưởng lớn đến việc hoạch địch chính sách kinh tế và tài chính ở châu Âu trong những năm 1970 và 1980. Các chính phủ Pháp, Anh và Ý thời điểm nay rất chú ý đến những quyết định được đưa ra ở Frankfurt. Trước khi nước Đức thống nhất năm 1991, một quan chức cấp cao trong phủ tổng thống Pháp phát biểu rằng: “Chúng ta có thể có bom nguyên tử, nhưng người Đức họ lại có đồng Mark”.
François Mitterrand, tổng thống Pháp trong thời kỳ bức tường Berlin sụp đổ, không phải là người ủng hộ sự tái thống nhất nước Đức. Ông sợ rằng người khổng lồ ở trung tâm Châu Âu sẽ lại sớm tìm kiếm cảm giác thống trị một lần nữa. Thủ tướng Anh Margaret Thatcher cũng tin vào điều đó, và ngay cả những chính trị gia cánh tả của Đức cũng nghĩ như vậy. Nhà văn đạt giải Nobel văn học, Günter Grass tin rằng đất nước mình sẽ lại sớm tự mãn và thèm muốn cái cảm giác thượng đẳng của ngày xưa.
Xác nhận lại một lần nữa nỗi lo đó là cách mà huấn luyện viên đội tuyển bóng đá Đức Franz Beckenbauer phát biểu khi mà vào năm 1990, lúc bóng đá Đức đăng quang tại World Cup tổ chức ở Italia, ông tuyên bố rằng: “Chúng ta nay đã trở thành số một thế giới sau một thời gian dài là số một của Châu Âu. Lúc này, chúng ta lại được bổ sung thêm những tuyển thủ đến từ Đông Đức. Thật xin lỗi phần còn lại của thế giới, nhưng đội tuyển Đức sẽ không bao giờ bị đánh bại trong nhiều năm tiếp theo”.
Trong địa hạt chính trị cũng dễ tìm thấy biểu hiện của sự hoang tưởng tự mãn này. Thủ tướng Helmut Schmidt tự nhận mình là kinh tế gia xuất sắc nhất thế giới trong thời kỳ 1970-1980. Khi ông hội đàm với tổng thống Mỹ Jimmy Carter, ông không xem đây là một cuộc gặp gỡ giữa Đại đế quốc Mỹ và một nước Đức nhỏ bé, mà là một cuộc gặp gỡ giữa Schmidt lớn và tiểu Carter. Sau đó vào những năm 1990, xuất hiện Oskar Lafontaine, thành viên Đảng dân chủ xã hội. Khi đảm nhận chức bộ trường tài chính Đức từ năm 1998, Lafontaine thực hiện nỗ lực đầu tiên để xây dựng Châu Âu theo tầm nhìn của Đức. Ông muốn hòa hợp các thị trường tài chính ở châu Âu với nhau và nỗ lực để xây dựng ở đây một khu vực sử dụng đồng tiền chung. Tờ Sun của Anh lúc ấy đã tự hỏi rằng, liệu ông có phải là người đàn ông nguy hiểm nhất châu Âu hay không.
Vẫn quá nhỏ và chần chừ?
Nhưng cuối cùng, Lafontaine đã thất bại, và đội tuyển quốc gia Đức cũng đã phải trải qua nhiều lần thất bại khi cố gắng giành giật lại ngôi vương môn thể thao vua, ít nhất là cho tới năm 2014. Ngoài ra, nước Đức sau khi thống nhất lại thể hiện một vai trò rất khiêm tốn trên trường chính trị. Tuy nhiên sau đó mọi thứ dần thay đổi khi mà đồng euro được đem vào sử dụng, thứ mà tổng thống Pháp Mitterand hy vọng là sẽ phá hủy “quả bom nguyên tử” của Đức là đồng Mark. Đồng Euro thực ra được tạo ra với mục đích ban đầu là phá vỡ sự thống trị trong kinh tế của Đức, nhưng hóa ra nó lại phản tác dụng. Đồng tiền chung đã liên kết số phận của các quốc gia thành viên lại với nhau và trớ trêu thay, lại giao cho Đức một quyền lực vượt trội so với các nước khác.
Đó là lý do vì sao “những câu hỏi về nước Đức” lại quay trở lại. Liệu nước Đức hiện đại quá lớn và quá quyền lực so với các quốc gia EU khác hay nó vẫn còn quá nhỏ và chần chừ trong việc lãnh đạo EU?
Hans Kundnani là trưởng bộ phận nghiên cứu chính sách tại Trung tâm Châu Âu về các Vấn đề Đối ngoại, một think-tank về toàn Châu Âu đặt tại London. Trọng tâm nghiên cứu của ông là về các chính sách đối ngoại của Đức. Ông đã xuất bản một cuốn sách về Đức với tựa đề “Nghịch lý về sức mạnh của nước Đức”. Kundnani liên kết những câu hỏi kinh điển về nước Đức với những tranh cãi hiện tại về vai trò của Đức trong khu vực đồng tiền chung Euro. Theo ông, sức mạnh kinh tế hiện tại của Đức là tổng hợp các mối quan hệ tương hỗ giữa các quốc gia thành viên, và chính sức mạnh này đã gây nên một sự bất ổn kinh tế, thứ có hiệu ứng giống như hiệu ứng gây ra bởi sự bất ổn chính trị thời Bismarck.
Kundnani tin rằng, vấn đề không nằm ở chỗ Đức quá quyền lực và sẽ là chủ thể lãnh đạo châu Âu, mà là ở cách thực hiện nửa vời thứ quyền lực này như hiện nay. Có lẽ Đức quá yếu để có thể đảm đương vai trò nó đang cố thực hiện, mặc dù Đức đã tập trung toàn bộ sức lực hiện có của mình.
“Nước Đức hiện đại lại một lần nữa gặp phải một nghịch lý. Nó vừa yếu lại vừa mạnh cùng một lúc – điều này giống với khi được thống nhất vào thế kỷ 19, nước Đức được nhìn nhận từ bên ngoài là quá quyền lực, nhưng đối với người dân trong nước thì quốc gia thực ra lại rất dễ bị tổn thương”, Kundnani viết tiếp. “Đức ngày nay (đơn giản là) không hề có ý làm lãnh đạo và nó kiên quyết chống lại sự cơ cấu nợ (mà về bản chất chính là quá trình chuyển sự thanh toán những khoản nợ và nghĩa vụ của các quốc gia khác trong liên minh tới tay của người dân và chính phủ Đức), nhưng nó lại cũng đồng thời muốn tái lập nên một châu Âu theo ý chí của mình, nhằm làm cho liên minh này trở nên giàu sức cạnh tranh hơn”.
“Lãnh đạo” trong ngữ cảnh này đồng nghĩa với nghĩa vụ phải cứu giúp các quốc gia khác, đó là cách mà Varoufakis nhìn nhận vấn đề. Vị bộ trưởng tài chính Hy Lạp này muốn Merkel phải tạo ra một phiên bản mới của Kế hoạch Marshall, thứ mà nước Mỹ đã đề ra và thực thi trong quá khứ nhằm giúp các quốc gia châu Âu tự đứng dậy sau chiến tranh. Lý do là vì một hệ thống tương tự như hệ thống do Mỹ dẫn dắt không chỉ đơn giản là việc Mỹ tạo ra những luật lệ cho hệ thống đó một cách cứng nhắc. Ẩn chứa bên trong còn là những động lực, phần thưởng mà Mỹ dành cho các quốc gia khác để họ đủ sức là một phần của hệ thống đó. Để làm được điều đó, hệ thống này đã phải tìm đến sự thoả hiệp trong ngắn hạn giữa các quốc gia để bảo đảm những lợi ích dài hạn.
Ngày càng giống một đế chế
Nước Đức là quốc gia đã chống lưng cho hai gói cứu trợ của Hy Lạp, nhưng chúng được nhìn nhận là không đủ hiệu quả. Chính phủ mới của Hy Lạp muốn thay đổi những luật lệ cơ bản của khu vực đồng Euro bằng cách thúc đẩy việc cơ cấu, chuyển đổi lại các khoản nợ và phá bỏ những luật lệ do Đức áp đặt. Nhiều quốc gia thành viên khác cũng đồng ý với điều này. “Đây không phải một liên minh tiền tệ”, tờ Financial Times bình luận trên ấn bảng tháng 5/2012. “Nó giống như là một đế chế nhiều hơn”.
Nhà đầu tư George Soros cảnh báo châu Âu đang bị chia rẽ giữa một bên là các quốc gia, nơi đã đạt được thặng dư thương mại trong nhiều năm và ở phía bên kia là những nước với thâm hụt thương mại. Ông nhấn mạnh đây chính là hệ quả tất yếu của mô hình lấy Đức là đế chế trung tâm của cả Châu Âu và các nước khác chỉ là vùng ngoại biên của nó.
Thế giới ngày nay vốn dĩ là xoay quanh những vấn đề về kinh tế. Khái niệm “lực lượng thống trị” và “kẻ bị thống trị” đã nhường lại vị trí lịch sử của nó cho cặp đôi khái niệm mới: chủ nợ và con nợ. Đức là chủ nợ lớn nhất châu Âu. Về cơ bản, người cho vay tất nhiên là có nhiều quyền lực hơn con nợ. Họ chế ngự con nợ và thường vạch ra những viễn cảnh cụ thể về việc người đi vay nợ cần phải làm những gì để có thể trả lại khoản nợ mà mình đã vay. Và vì điều đó, chủ nợ thường không giành được nhiều thiện cảm từ phía con nợ.
Nguyên nhân mà các chủ nợ muốn kiểm soát và chế ngự con nợ của mình là bởi vì họ sợ. Sợ rằng họ sẽ không bao giờ nhìn thấy tiền của mình một lần nữa. Nước Đức có thể tạm chấp nhận việc Hy Lạp sẽ không trả nổi nợ, nhưng không thể chịu được điều tương tự với trường hợp của Ý và Tây Ban Nha.
Đức có thể đủ lớn mạnh để áp đặt luật lệ lên châu Âu, Kundnani viết, nhưng nó lại quá yếu để trở thành một bá chủ thực sự. Giống như trước Thế chiến thứ nhất, nước Đức hiện đại lại một lần nữa bị vây quanh bởi những nước nhỏ hơn mình. Một phần của nỗi sợ này được phản ánh trong nỗi lo rằng, ECB có thể bị điều khiển bởi những nước nhỏ ở Nam Âu và quyền lực to lớn của nó có thể rơi vào tay những quốc gia vay nợ. Nước Đức hành xử không giống như một bá chủ mà giống là một “bán bá chủ” (semi-hegemon) nhiều hơn. Đây là một cụm từ được viết ra bởi sử gia người Đức Ludwig Dehio, khi ông mô tả vị trí của nước Đức trong lòng châu Âu sau năm 1871. Cùng một hướng suy nghĩ như trên, cựu bộ trưởng ngoại giao của Ba Lan Radoslaw Sikorski đã phát biểu trong một diễn văn ở Berlin vào tháng 11 năm 2011 rằng, ông ít lo lắng về quyền lực quá lớn của nước Đức mà chủ yếu ông sợ về sự bàng quan không hành động của Đức nhiều hơn và do đó ông hối thúc nước này cần quyết đoán hơn trong việc dẫn dắt châu Âu.
Một thực tế khác mà Kundnani đã ghi nhận là một mầm mống chính trị mới trong lòng xã hội Đức khi người dân nước này tự coi mình mới chính là nạn nhân thực sự của cuộc khủng hoảng đồng Euro – một quan điểm đương nhiên là trái ngược với cách mà các quốc gia vay nợ nhìn nhận sự việc. Sự tự thương xót này chính là nguồn gốc cho sự xuất hiện một trào lưu chính trị mới ở Đức, và hệ quả của nó là sự buộc tội không ngừng đối với người dân Hy lạp là đã quá tham lam (và có phần vô kỷ luật).
Sự liên hệ sai với chủ nghĩa phát-xít
Trong khi nước Đức thống trị châu Âu về mặt kinh tế trong suốt cuộc khủng hoảng, vai trò của nó trong các chính sách đối ngoại Châu Âu vẫn còn rất hạn chế. Mà ví dụ điển hình nhất cho việc từ chối thực hiện một vai trò chính trị lớn hơn trên mặt trận ngoại giao là việc không tham gia cuộc bỏ phiếu trong phiên họp Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc tháng 3/2011 về việc cho phép NATO can thiệp quân sự vào Libya. Các đối tác châu Âu của Đức như Pháp nhìn nhận sự bỏ cuộc này của nó như là một bước thụt lùi, vì trước đó nước này đã tham gia vào cuộc không kích Kosovo và cuộc chiến Afghanistan.
Việc kêu gọi Đức thể hiện sự lãnh đạo nhiều hơn nữa xuất phát từ những quốc gia Đông Âu trong những năm gần đây rõ ràng là đã đối nghịch với những lời phàn nàn về sự thống trị kinh tế của Đức. Nhưng hai xu hướng này rõ ràng là có liên quan đến nhau. Đức đơn giản là muốn trở thành một cường quốc kinh tế, chứ không phải là một cường quốc quân sự. Chủ nghĩa dân tộc của nó dựa trên sức mạnh của nền kinh tế quốc dân và những đồ thị xuất khẩu, chứ không phục vụ cho ham muốn trở thành một quyền lực địa chính trị. Sự nghịch lý của Đức có thể được nhìn thấy trong sự chần chừ của nước này khi xử lý cuộc khủng hoảng Ukraine.
Kundnani viết, nước Đức được mô tả như là một sự pha trộn kỳ lạ giữa sự quyết đoán trong kinh tế và sự lưỡng lự khi đối mặt với các vấn đề quân sự”. Chỉ riêng với lý do này, việc đánh đồng nước Đức hiện đại với quá khứ phát xít của nó là hoàn toàn không có cơ sở. Nước Đức ngày này không phải là một đất nước của nạn kỳ thị chủng tộc hay là một quốc gia dung dưỡng cho bạo lực. Tất cả mối quan tâm của Đức là về vấn đề tiền bạc. Và đó là điều khác biệt lớn nhất giữa hai thời kỳ, ngay cả khi những tranh chấp với các quốc gia khác trên địa hạt kinh tế có gay gắt đến mức nào đi chăng nữa.
Nhưng đúng là đang có dấu ấn của một đế chế, ít nhất trong lãnh địa kinh tế. Khu vực đồng tiền chung euro đúng là được lãnh đạo bởi Đức, nhưng sự thống trị cỉa Berlin không phải là không bị thách thức. Sự kháng cự lại Đức, trái lại là rất lớn khi nó là tiếng nói của hàng triệu người dân từ những quốc gia khác. Do đó, sở hữu một thứ quyền lực lớn như thế dĩ nhiên là phải đi kèm với một nghĩa vụ lớn tương đương. Tuy nhiên, chính phủ và những nhà hoạch định chính sách của Đức lại hành xử như thể họ đang vận hành một quốc gia nhỏ vậy.
 style=”border:0;margin-right:0;margin-bottom:18px;margin-left:0;padding:0;vertical-align:baseline;”
Nói tóm lại, Đức thực tế là không đủ tiền và sức lực để giải quyết tất cả các vấn đề của các quốc gia khác. Nhưng vai trò của nó vẫn rất quan trọng và đáng lẽ ra là Đức đã có thể tạo nên nhiều thứ vĩ đại hơn, bằng cách đơn giản là thỉnh thoảng phô ra sự hào phóng của mình. Và tất nhiên nếu không có những tiếng nói phản đối từ Munich hay Berlin thì nhiều tiến trình ở châu Âu sẽ dễ dàng đạt được kết quả hơn. Đôi khi, quyền lực và sự vĩ đại của mình lại được thể hiện một cách rõ nét khi mà ta lơ đi những gán ghép khiêng cưỡng của các thế lực ngoại vi hoặc là bác bỏ nó một cách lịch thiệp.