Trang

Thứ Sáu, 20 tháng 9, 2013

Chuyện tình bi tráng của nguyên mẫu cô du kích trong bài “Núi Đôi”


Bài thơ Núi Đôi được nhà thơ Vũ Cao sáng tác từ một chuyện tình có thật, bối cảnh có thật. Theo lời tác giả, trong bài thơ duy nhất chỉ có câu “Bảy năm về trước em mười bảy/Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng” là chi tiết hư cấu.

Người 17 tuổi đã trẻ nhất làng?
Nhà thơ Vũ Cao từng nói, nếu không có chất liệu cuộc sống hàng ngày thì ông không viết được. Ông kể rằng bài thơ được ông viết vào một ngày cuối năm 1956. Hồi đó ông về công tác ở sư đoàn 312, đóng quân ở huyện Sóc Sơn (Hà Nội), cạnh đó có ngọn núi Đôi.
Một hôm, theo mấy người dân đi chợ, ông nghe họ kể chuyện tình của một cô gái du kích trong làng yêu một anh trai làng, rồi anh đi bộ đội. Khi anh trở về thì cô gái đã hy sinh.
Núi Đôi, Vũ Cao
Liệt sỹ Trần Thị Bắc, hình mẫu của nhân vật cô du kích trong bài thơ Núi Đôi.
Vũ Cao liền tìm đến thăm mộ người nữ liệt sỹ đó ở xóm Chùa, thôn Xuân Đoài (còn gọi là Xuân Dục - Đoài Đông), thuộc xã Phù Linh (còn gọi là Lạc Long). Đến tận nơi và nghe người dân kể lại câu chuyện tình giữa anh bộ đội và cô du kích, cảm hứng xuất hiện khiến ông đã chấp bút viết ra bài thơ Núi Đôi...
Cả tên làng, tên chợ, tên người và quang cảnh đều hoàn toàn có thật. Mộ cô gái hiện vẫn còn. Chỉ có anh bộ đội là người yêu của cô du kích thì lúc ấy Vũ Cao không gặp được, không rõ còn sống hay đã mất.
Về lý do tại sao ngay trong hai câu thơ đầu, ông lại cho rằng đôi nam nữ, trong đó cô gái 17 tuổi và chàng trai đôi mươi là “trẻ nhất làng”?. Vũ Cao sau này nói rằng, ngay chính ông cũng... không hiểu vì sao ông lại viết như vậy.
Ông kể: “Quả thật hồi đó trong làng còn có cả trẻ nhỏ và thanh thiếu niên cùng trang lứa với họ. Có lẽ tôi đã quá cảm động trước chuyện tình đẹp như mơ và cũng đầy tình tiết bi kịch của đôi lứa ấy mà “thậm xưng” lên như vậy.
Tuy nhiên, nói trẻ nhất làng thì cũng có khía cạnh không ngoa. Người ta tiếc cho cuộc tình không thành ở lứa tuổi 17, lứa tuổi nhiều sức sống nhất, yêu tha thiết nhất, thế mà giặc Pháp xâm chiếm quê hương, giết cô du kích”.
Sự đồng cảm lạ kỳ giữa nhà thơ – hình mẫu
Hai ngọn núi Đôi bây giờ vẫn còn, người dân ở khu vực xã Phù Linh đều biết câu chuyện trong bài thơ cùng tên ngọn núi, hỏi ai cũng đều có thể nhận được câu trả lời: “Cô ấy chính là người làng này”.
Nhà thơ Vũ Cao (1922 – 2007) quê tại xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định (cùng quê với nhạc sĩ Văn Cao).
Ông sinh trong một gia đình nho học và hoạt động văn học khá sớm. Vũ Cao được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001.
Ông có hai người em trai đều là nhà văn: Vũ Ngọc Bình và Vũ Tú Nam.
Nhân vật nữ trong bài thơ chính là liệt sỹ Trần Thị Bắc, con gái đầu trong một gia đình có truyền thống yêu nước. Lớn lên trong thời kỳ giặc Pháp xâm lược, năm 15 tuổi Bắc đã tham gia các hoạt động đoàn thể. 17 tuổi cô vào đội du kích với nhiệm vụ làm giao thông liên lạc, tiếp tế cho đội du kích rồi được giao cả ba nhiệm vụ: quân báo, cứu thương và binh vận.
Ngày 21/3/1954, dẫn một đoàn cán bộ đi công tác, khi trở về núi Đôi thì Bắc gặp ổ phục kích của địch. Cô giao liên dù bị địch bịt miệng nhưng vẫn kịp thời la lớn để cảnh báo những người trong đoàn cùng đi phía sau, giúp các cán bộ chạy thoát.
Tức tối, địch tra hỏi nhưng không khai thác được thông tin gì từ cô du kích gan dạ này. Giặc Pháp xử bắn Bắc ngay tại chỗ. Khi đồng đội tìm đến nơi thì Bắc đã tắt thở. Đồng đội đắp mộ cho cô ở khu vực cầu Cốn, Vệ Sơn, xã Tân Minh.
Người ta cũng xác định được nhân vật “Anh đi bộ đội sao trên mũ" ấy cũng là một người có thật: ông Trịnh Khanh, người cùng xã Phù Linh. Theo lời ông Khanh kể lại, ông và cô Bắc quen nhau trong thời gian Bắc đang học y tá, và đơn vị của ông đóng quân gần đó. Là đồng hương nên có nhiều điều quý mến nhau, giữa đôi trai gái này đã hẹn ước với nhau trước khi cô Bắc học xong khoá y tá rồi quay về Phù Linh.
Đầu năm 1953, ông Khanh và cô Bắc gặp lại nhau và hai người quyết định tổ chức đám cưới ngay tại đơn vị của chú rể. Đám cưới tổ chức đơn sơ, đại diện họ nhà trai là đồng đội cùng đơn vị, đại diện họ nhà gái là mẹ của Bắc.
Vợ chồng sống với nhau được hai ngày thì chia tay, ông Khanh theo đơn vị chuyển quân đến địa điểm mới, chị Bắc trở về quê nhà Phù Linh. “Tôi không ngờ đó là cuộc chia ly vĩnh viễn", ông Khanh nhớ lại.
Ba tháng sau ngày cưới, ông Khanh nhận được tin vợ mình đã hi sinh. Đau đớn nhưng không biết làm sao, ông tiếp tục theo đơn vị bước vào những trận đánh mới.
Núi Đôi, Vũ Cao
Xác lô cốt của giặc Pháp trên núi Đôi.
Khi Hiệp định Genève được ký kết, một buổi chiều cuối năm 1954, người ta nhìn thấy một anh bộ đội vai đeo ba lô bước về, nhưng không vào làng ngay mà ngồi thẫn thờ bên ngôi mộ chi Bắc ven gò Cầu Cốn. Ông Khanh nghẹn ngào “Anh ngước nhìn lên hai dốc núi/ Hàng cây, bờ cỏ, con đường quen/ Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói/ Núi vẫn đôi mà anh mất em”. “Không hiểu vì sao nhà thơ Vũ Cao lại có thể đồng cảm, hiểu tâm trạng của người trong cuộc đến như thế”, ông Khanh nói.
Năm 1975, sau khi đất nước thống nhất, ông Khanh đã tới tìm gặp nhà thơ Vũ Cao, nhà thơ lúc đó mới bàng hoàng: "Thế Bắc có chồng rồi à?".
Theo nhà thơ Vũ Cao, khi mới bắt gặp câu chuyện, ông đã dự định sẽ viết một truyện ngắn về đề tài này chứ không phải là một bài thơ. “Không hiểu vì sao, sau khi đi thực tế, tứ thơ dâng lên và bài thơ ra đời”, ông kể lại.
Hàng chục năm sau khi bài thơ ra đời, nhiều bạn đọc còn nhầm tưởng bối cảnh và tình huống trong bài thơ là của chính tác giả. Trong một lần nói chuyện với sinh viên Trường cao đẳng Sư phạm Hà Nội, thậm chí còn có một cô sinh viên nước mắt lưng tròng thầm thì với nhà thơ “Cháu thương bác quá”.
Một nhà thơ từng nói, Vũ Cao là nhà thơ hiền hiếm có. Rằng Vũ Cao nổi tiếng sau kháng chiến chống Pháp với bài thơ Núi Đôi bất tử, Vũ Cao lẽ ra có thể nhân thành công đó để đưa thơ mình lên. Nhưng ông lại cứ như người bộ hành chậm rãi, nhường đường cho người khác, cho các nhà thơ khác. Vũ Cao nói, ông làm thơ, mục đích cũng chỉ là để phục vụ bộ đội mà thôi.
(Theo Xa lộ pháp luật)
Núi đôi - VŨ CAO
Bảy năm về trước em mười bảy 
Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng 
Xuân Dục, Đoài Đông hai nhánh lúa 
Bữa thì anh tới bữa em sang. 

Lối ta đi giữa hai sườn núi 
Đôi ngọn nên làng gọi núi Đôi 
Em vẫn đùa anh sao khéo thế 
Núi chồng, núi vợ đứng song đôi. 

Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới 
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau 
Mới ngỏ lời thôi đành lỗi hẹn 
Ai ngờ từ đó mất tin nhau. 

Anh vào bộ đội lên Đông Bắc 
Chiến đấu quên mình năm lại năm 
Mỗi bận dân công về lại hỏi 
Ai người Xuân Dục Núi Đôi chăng. 

Anh nghĩ quê ta giặc chiếm rồi 
Trăm nghìn căm uất bao giờ nguôi 
Mỗi tin súng nổ vùng đai địch 
Sương trắng người đi lại nhớ người. 

Đồng đội có nhau thường nhắc nhở 
Trung du làng nước vẫn chờ trông 
Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm 
Em vẫn đi về những bến sông. 

 

Náo nức bao nhiêu ngày trở lại 
Lệnh trên ngừng bắn anh về xuôi 
Hành quân qua tắt đường sang huyện 
Anh nhớ thăm nhà thăm Núi Đôi. 

Mới đến đầu ao tin sét đánh 
Giặc giết em rồi, dưới gốc thông 
Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa 
Em sống trung thành chết thuỷ chung. 

Anh ngước nhìn lên hai dốc núi 
Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen 
Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói 
Núi vẫn Đôi mà anh mất em. 
 .

Dân chợ Phù Linh ai cũng bảo 
Em còn trẻ lắm, nhất làng trong 
Mấy năm cô ấy làm du kích 
Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng. 

Từ núi qua thôn đường nghẽn lối 
Xuân Dục Đoài Đông cỏ ngút đầy 
Sân biến thành ao nhà đổ chái 
Ngổn ngang bờ bụi cánh dơi bay. 

Cha mẹ dìu nhau về nhận đất 
Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau 
Nứa gianh nửa mái lều che tạm 
Sương trắng khuấy dần chuyện xót đau. 

Anh nghe có tiếng người qua chợ 
Ta gắng mùa sau lúa sẽ nhiều 
Ruộng thấm mồ hôi từng nhát cuốc 
Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu. 

Nhưng núi còn kia anh vẫn nhớ 
Oán thù còn đó anh còn đây 
Ở đâu cô gái làng Xuân Dục 
Đã chết vì dân giữa đất này? 

Ai viết tên em thành liệt sĩ 
Bên những hàng bia trắng giữa đồng 
Nhớ nhau anh gọi em, đồng chí 
Một tấm lòng trong vạn tấm lòng. 

 

Anh đi bộ đội sao trên mũ 
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường 
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi 
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm.

12 nhận xét:

  1. Em có biết về bài thơ Núi đôi nổi tiếng, nhưng hôm nay mới biết tường tận hơn. Cảm động quá, Cám ơn chị!

    Trả lờiXóa
  2. Cám ơn bạn đã cho biết nguyên mẫu của bài thơ tình đẹp,bẩt hủ "Núi Đôi " của nhà thơ Vũ Cao.Chuyện tình quá đẹp,bi tráng như vậy giúp nhà thơ có cảm hứng để sang tác một bài thơ để đời mà thế hệ minh chắc ai cũng từng biết

    Trả lờiXóa
  3. Hôm nay em mới biết tường tận câu chuyện tình trong "NÚi Đôi của tác giả VŨ Cao, cám ơn chị đã chuyển tải, cuối tuần khoẻ nhé chị ơi.

    Trả lờiXóa
  4. Bài thơ nổi tiếng đã nhiều lần được đọc, kể cả trên blog, nhưng nay được biết thêm tường tận về hoàn cảnh và nguồn gốc của bài thơ thật là cảm động và hôm nay cũng mới được biết là hai người đã cưới nhau, ở với nhau có hai ngày...

    Trả lờiXóa
  5. Anh đi bộ đội sao trên mũ
    Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
    Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
    Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm.
    bON EM BÌNH GIẢNG BÀI THƠ NÀY...
    VÀ ÁNH SAO TRÊN MŨ CŨNG LÀ MỘT ĐỘNG LỰC THU HÚT NHIỀU BẠN TRẺ THỜI EM CHỊ À

    Trả lờiXóa
  6. cám ỏn bạn đã cho nhìn lại những khuân mặt thân thiết của K5.CÓ 1 khuân mặt mình nghĩ là bạn ghi ko đúng(?),đó là khuân mặt NGUYỄN LUÂN chứ ko phải khuân mặt của VŨ LỢI,vì mình có buổi gặp NGUYỄN LUÂN khá lâu nên mình vẫn nhớ! chẳng biết mình nhầm hay bạn nhầm.mình đã xem đi xem lai 3 lần

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Cám ơn bạn, trường hợp này mình đã sửa đi sửa lại mà vẫn nhầm. Còn gì sai nữa bạn phát hiện giúp mình nhé. Nếu được các bạn khác giúp sức ( Quang Trung, Thế Long, Tiến Hoàn...) mình định sẽ làm ảnh cho cả bảng Danh Sách K5 để những lần gặp nhau sau còn nhận ra nhau

      Xóa
  7. Thông tin này nay con mới biết, hay quá. Cảm ơn cô ạ

    Trả lờiXóa
  8. Cũng như các bạn. Tôi rất thích và đã thuộc lòng bài thơ Núi Đôi của nhà thơ Vũ Cao lâu rồi. Nhưng đến khi đọc bài này mới biết “ Bài thơ Núi Đôi được nhà thơ Vũ Cao sáng tác từ một chuyện tình có thật, bối cảnh có thật.” Một chuyện tình Bi tráng, cảm động. Đọc xong bài này rồi đọc lại bài thơ càng thấy hay và xúc động hơn.
    Cám ơn các bạn đã chia sẻ.
    Hôm nay tôi cũng mới biết nhà thơ Vũ Cao là em nhà văn Vũ Tú Nam, một người rất thân thiết với nhà văn Nguyễn Đình Lạp ( Bố bạn Ngọc Trâm)

    Trả lờiXóa
  9. Tôi nhớ đã có lần xem một tiết mục trên Tivi phỏng vấn nhà thơ Vũ Cao về bài thơ " Núi đôi" của ông, hình như cả cuộc đời ông chỉ làm có một bài thơ ấy ,và bai thơ theo năm tháng vẫn sông mãi cung với cô nữ du kích và anh bộ đôi bên ngọn núi đôi ấy.Đọc bài của bạn càng hiểu rõ hơn ngọn nguồn của bai thơ, càng yêu quý nhà thơ và bài thơ nổi tiếng của ông.

    Trả lờiXóa
  10. Một câu chuyện tình thật cảm động !
    Một bài THƠ thật hay về chất và hồn !
    Cám ơn Ánh !

    Trả lờiXóa
  11. Trâm đã từng thuộc bài thơ này, nhất là 4 câu cuối. Nếu đúng là ông chỉ có một bài thơ này thôi thì cũng đáng vừa lòng, đáng tự hào.

    Trả lờiXóa